TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 82/2019/HS-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 83/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Duy T, sinh năm 1972 tại Thái Bình; nơi cư trú thôn P, xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Duy L (đã chết) và bà Lê Thị H, sinh năm 1947; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1974 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2002;
Tiền án 01: Ngày 03/10/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Bình Phước (nay là Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước) xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 111/2017/HSST ngày 03/10/2017); tiền sự: Không;
Về nhân thân:
Ngày 19/3/2003, bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 08/HSST ngày 19/3/2003);
Ngày 25/3/2008, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bình Phước xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 08/2008/HSST ngày 25/3/2008);
Ngày 29/9/2011, bị Ủy ban nhân dân thị xã Đ, tỉnh Bình Phước (nay là Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước) áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội tỉnh chữa bệnh bắt buộc số 3878/QĐ-UBND.
Ngày 03/9/2016, bị Công an huyện Đ, tỉnh Bình Phước ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 63/QĐ-XPVPHC với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2019 cho đến nay “có mặt”.
Người bị hại:
Chị Hồ Thị Hải M, sinh năm 1977; nơi cư trú khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1974; nơi cư trú thôn P, xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”;
Chị Lê Thị L, sinh năm 1961; nơi cư trú thôn P, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”;
Anh Nguyễn Duy C, sinh năm 1959; nơi cư trú thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Bình “vắng mặt”;
Anh Ninh Xuân C, sinh năm 1972; nơi cư trú tổ 4, khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có đơn xin xét xử vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 01/3/2019, Nguyễn Duy T điều khiển xe mô tô biển số 93P1-68884 đi từ xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước để giải quyết công việc. Sau đó, khi T đang lưu thông trên đường T, thuộc phường T, thành phố Đ thì T phát hiện trên đường có 01 cây sắt dài khoảng 60cm (một đầu lõm, một đầu dẹp cong hình chữ V) nên nảy sinh ý định dùng thanh sắt này làm công cụ để trộm cắp tài sản nên lấy để lên xe. Khi đi ngang qua nhà chị Hồ Thị Hải M, thuộc phường T, thành phố Đ, phát hiện cửa nhà khóa nên T chạy qua một đoạn để đứng quan sát, thấy nhà không có người trông coi nên T điều khiển xe quay lại, dùng cây sắt bẻ ổ khóa, đi vào trong nhà thấy 01 chiếc rương bằng gỗ. T mở chiếc rương và lấy ở trong rương 02 sợi dây chuyền bạc, 04 chiếc nhẫn vàng 9999, 01 dây chuyền vàng 18K có mặt hình trái tim được đựng trong hộp màu hồng để trong ví da màu đen nên T lấy, cất vào túi quần. T tiếp tục đi vào phòng phía trong và phát hiện 01 chiếc điện thoại màu đỏ đen hiệu Oppo A3S và 01 cục sạc đang để trên bàn nên lấy để vào túi quần. Sau khi lấy được tài sản, T điều khiển xe mô tô biển số 93P1-68884 mang số tài sản trên về nhà. Khi đi đến khu vực nghĩa trang xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước, chiếc điện thoại T lấy trộm của chị M bị rơi xuống đường nên bị bể màn hình, không còn hoạt động nên T vứt chiếc điện thoại, còn 01 cục sạc điện thoại và chiếc ví da màu đen T vứt vào bụi cỏ ven đường. Đối với số vàng lấy trộm được của chị M, T đem đến tiệm vàng “B” thuộc xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước bán được số tiền 12.200.000 đồng. Còn 02 sợi dây chuyền bạc không bán được nên T đã vứt ở đống rác trước tiệm vàng “B”. Số tiền bán vàng, T đã tiêu xài cá nhân hết.
Sau khi phát hiện tài sản bị mất trộm chị M đã đến Công an phường T, thành phố Đ trình báo sự việc. Ngày 11/3/2019, T đến Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Ngày 21/5/2019, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự có bản kết luận định giá tài sản số 91/KLĐG kết luận: 01 chiếc điện thoại màu đỏ đen hiệu Oppo A3S đã qua sử dụng, hoạt động bình thường trị giá 2.200.000 đồng; 3,5 chỉ vàng 9999 (nhẫn vàng hình tròn) trị giá 12.845.000 đồng; 1,35 chỉ vàng 18K (dây chuyền vàng có mặt hình trái tim) trị giá 3.294.000 đồng; 02 chỉ bạc không rõ nhãn hiệu (dây lắc đeo tay bằng bạc) trị giá 140.000 đồng. Tổng tài sản trị giá 18.479.000 đồng.
Đối với 01 cục sạc điện thoại và chiếc ví da màu đen có giá trị không lớn, không còn sử dụng nên chị M không yêu cầu bồi thường.
Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã thu giữ: 01 xe mô tô biển số 93P1-68884; 01 áo thun nam ngắn tay màu xanh hiệu Adidas size M; 01 quần tây nam dài màu xám đen; 01 đôi dép lê nam màu nâu hiệu Hồng Thạnh; 01 nón bảo hiểm màu đen hai bên dán chữ Honda Visacoop và số tiền 11.000.000 đồng.
Ngày 04/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô biển số 93P1-68884 cho chị Nguyễn Thị T, trả cho chị Hồ Thị Hải M số tiền 11.000.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 84/CT-VKS ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T mức án từ 15 đến 18 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận việc tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Duy T đồng ý bồi thường tiếp số tiền 7.500.000 đồng ngoài số tiền 11.000.000 đồng mà gia đình bị cáo đã bồi thường thay cho người bị hại chị Hồ Thị Hải M.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo T những tài sản thu giữ của bị cáo trong quá trình điều tra.
Bị cáo T tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 84/CT-VKS ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; biên bản người phạm tội ra đầu thú, biên bản định giá tài sản; kết luận điều tra cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Lợi dụng việc chị Hồ Thị Hải M sơ hở trong việc quản lý tài sản nên khoảng 07 giờ 30 phút ngày 01/3/2019 Nguyễn Duy T đã dùng cây sắt dài khoảng 60cm bẻ ổ khóa nhà của chị M, tại phường T, thành phố Đ để lén lút lấy trộm 02 sợi dây chuyền bạc, 04 chiếc nhẫn vàng 9999, 01 dây chuyền vàng 18K, 01 chiếc điện thoại màu đỏ đen hiệu Oppo A3S, 01 ví da và 01 cục sạc điện thoại.
[3] Tại bản kết luận định giá tài sản số 91/KLĐG ngày 21/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự kết luận: 01 chiếc điện thoại màu đỏ đen hiệu Oppo A3S đã qua sử dụng, hoạt động bình thường trị giá 2.200.000 đồng; 3,5 chỉ vàng 9999 (nhẫn vàng hình tròn) trị giá 12.845.000 đồng; 1,35 chỉ vàng 18K (dây chuyền vàng có mặt hình trái tim) trị giá 3.294.000 đồng; 02 chỉ bạc không rõ nhãn hiệu (dây lắc đeo tay bằng bạc) trị giá 140.000 đồng. Tổng tài sản trị giá 18.479.000 đồng.
Căn cứ vào hành vi bị cáo thực hiện và giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 18.479.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo có tiền án ngày 03/10/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Bình Phước (nay là Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước) xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và đã nhiều lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không biết lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả từ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Do bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do đó lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng hình phạt là “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[5] Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội đã tự nguyện ra đầu thú; bị cáo tác động gia đình bồi thường khắc phục thiệt hại cho người bị hại; tại phiên tòa người bị hại cũng xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên được Hội đồng xét xử xem xét trong việc lượng hình phạt đối với bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người bị hại chị Hồ Thị Hải M và bị cáo Nguyễn Duy T thống nhất việc bị cáo Nguyễn Duy T bồi thường tiếp cho chị M số tiền 7.500.000 đồng ngoài số tiền 11.000.000 đồng mà anh Nguyễn Duy C là anh ruột của bị cáo T đã bồi thường cho người bị hại. Xét sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại tại phiên tòa là tự nguyện, không trái với các quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét ghi nhận.
[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số vật chứng thu giữ của bị cáo T trong quá trình điều tra gồm: 01 áo thun nam ngắn tay màu xanh hiệu Adidas size M; 01 quần tây nam dài màu xám đen; 01 đôi dép lê nam màu nâu hiệu Hồng Thạnh; 01 nón bảo hiểm màu đen hai bên dán chữ Honda Visacoop xét thấy số vật chứng trên hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/3/2019 đồng
3. Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo T có trách nhiệm bồi thường cho chị Hồ Thị Hải M số tiền 7.500.000
“Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015”.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
4. Vật chứng vụ án:
Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 áo thun nam ngắn tay màu xanh đã cũ; 01 quần tây nam dài màu xám đen; 01 đôi dép lê nam màu nâu hiệu Hồng Thạnh đã cũ; 01 nón bảo hiểm màu đen hai bên dán chữ Honda đã cũ.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001696, quyển số 0034, ký hiệu D47/2017 ngày 02/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Đ).
5. Về án phí sơ thẩm:
Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Án phí dân sự sơ thẩm bị cáo T phải chịu 375.000 đồng (Ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
6. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.
Bản án 82/2019/HS-ST ngày 15/08/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 82/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về