Bản án 82/2018/HNGĐ-ST ngày 18/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 82/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã TU tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 299/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/8/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lâm Thị Mỹ L, sinh năm: 1991; địa chỉ: Số 171/7, ấp B, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Phòng số 19, nhà trọ S, tổ 1, khu phố Đ, phường H, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Biện Ngọc Duy Th, sinh năm 1968; địa chỉ: Số 171/7, ấp B, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Phòng số 19, nhà trọ S, tổ 1, khu phố Đ, phường H, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/6/2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lâm Thị Mỹ L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Thị Mỹ L và ông Biện Ngọc Duy Th tự nguyện tiến tới hôn nhân và cha mẹ hai bên đồng ý. Ông bà tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 81, quyển số 01/2010 cấp ngày 09/7/2010.

Thời gian đầu cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc vàI tháng. Đến năm 2014, vợ chồng chuyển đến Bình Dương sinh sống cho đến nay. Vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn thường xuyên từ năm 2015 cho đến nay. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là ông Th sống không có trách nhiệm với vợ con. Ông Th thường xuyên tham gia chơi đánh bạc, đi uống rượu, bia với bạn bè dẫn đến thiếu nợ. Vì vậy, bà L phải tự lo chi phí sinh hoạt trong gia đình cũng như học phí của con. Ông bà đã nhiều lần hòa giải với nhau nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng, xây dựng gia đình hạnh phúc nhưng không thành. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà L yêu cầu ly hôn với ông Th.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Biện Ngọc Duy Kh, sinh ngày 10/8/2008 và Biện Ngọc H, sinh ngày 07/10/2015. Bà Lâm Thị Mỹ L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Biện Ngọc Duy Kh. Ông Biện Ngọc Duy Th trực tiếp nuôi dưỡng con chung Biện Ngọc H. Bà L không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu chứng cứ sau:

+ Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn;

+ Bản sao giấy khai sinh mang tên Biện Ngọc Duy Kh và Biện Ngọc H;

+ Bản sao sổ tạm trú;

+ Bản photo chứng minh nhân dân mang và bản photo sổ hộ khẩu tên Lâm Thị Bị đơn ông Biện Ngọc Duy Th trình bày: Ông Th thống nhất với lời trình bày của bà L về thời gian tìm hiểu, thời gian và địa điểm đăng ký kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn. Ông Th thừa nhận trong thời gian sống chung ông Th đã thiếu trách nhiệm với vợ con. Ông Th đi chơi với bạn bè dẫn đến không có tiền chi phí trong gia đình. Ông Th hứa sẽ thay đổi để vợ chồng có thể đoàn tụ sống chung và cùng chăm sóc cho con. Do đó, ông Th không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Biện Ngọc Duy Kh, sinh ngày 10/8/2008 và Biện Ngọc H, sinh ngày 07/10/2015. Khi lý hôn ông Th đồng ý giao bà Lâm Thị Mỹ L trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Biện Ngọc Duy Kh. Ông Biện Ngọc Duy Th trực tiếp nuôi dưỡng con chung Biện Ngọc H. Ông Th không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản xác minh ngày 31/7/2018 tại Ủy ban nhân dân phường H, thị xã TU, tỉnh Bình Dương thì ông Biện Ngọc Duy Th, sinh năm 1968; địa chỉ: Số 171/7, ấp B, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Phòng số 19, nhà trọ S, tổ 1, khu phố Đ, phường H, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Về mâu thuẫn của vợ chồng cũng như yêu cầu nuôi con chung thì đại diện chính quyền địa phương không nhận được tin báo hay đơn yêu cầu giải quyết mâu thuẫn của đương sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU phát biểu tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU.

Về nội dung: Bà Lâm Thị Mỹ L và ông Biện Ngọc Duy Th tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 81, quyển số 01/2010, ngày 09/7/2010. Nguyên nhân bà L yêu cầu ly hôn là do ông Th không chăm lo cho gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên bà L yêu cầu ly hôn với ông Th là có căn cứ; về con chung bà L và ông ông Th đã tự thỏa thuận bà L trực tiếp nuôi con tên Biện Ngọc Duy Kh, ông Th trực tiếp nuôi con tên Biện Ngọc H là phù hợp; về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu; về tài sản chung, nợ chung các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát,

[1]. Về quan hệ pháp luật và Thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lâm Thị Mỹ L có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Biện Ngọc Duy Th và yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn nên đây là vụ án “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Biện Ngọc Duy Th đăng ký tạm trú tại địa chỉ: Phòng số 19, nhà trọ S, tổ 1, khu phố Đ, phường H, thị xã TU, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Thị Mỹ L và ông Biện Ngọc Duy Th là những người đủ điều kiện kết hôn; ông bà tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 81, quyển số 01/2010, ngày 09/7/2010, đây là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Do ông Th không chăm lo gia đình, tình cảm vợ chồng không còn, ông bà không thể tiếp tục chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

[3]. Xét, mâu thuẫn giữa bà L và ông Th đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, bà Lâm Thị Mỹ L yêu cầu ly hôn với ông Biện Ngọc Duy Th là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[4]. Về con chung: Bà L và ông Th có con chung tên Biện Ngọc Duy Kh, sinh ngày 10/8/2008 và Biện Ngọc H, sinh ngày 07/10/2015. Bà L và ông Th tự nguyện thỏa thuận: Bà Lâm Thị Mỹ L trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Biện Ngọc Duy Kh. Ông Biện Ngọc Duy Th trực tiếp nuôi dưỡng con chung Biện Ngọc H. Bà L và ông Th không cấp dưỡng nuôi con. Theo bản tự khai ngày 28/8/2018, cháu Biện Ngọc Duy Kh cũng có nguyện vọng được ở với bà Lâm Thị Mỹ L. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con”. Sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên Tòa án chấp nhận.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[6]. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiền tòa là có căn cứ phù hợp quy định pháp luật.

[7]. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Mỹ L về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” với ông Biện Ngọc Duy Th như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Thị Mỹ L được ly hôn với ông Biện Ngọc Duy Th.

- Công nhận sự tự nguyên thỏa thuận của các đương sự về con chung: Giao con chung tên Biện Ngọc Duy Kh, sinh ngày 10/8/2008 cho bà Lâm Thị Mỹ L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Giao con chung tên Biện Ngọc H, sinh ngày 07/10/2015 cho ông Biện Ngọc Duy Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà L và ông Th không cấp dưỡng nuôi con.

Bà Lâm Thị Mỹ L và ông Biện Ngọc Duy Th đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Ông Th và bà L được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Th hoặc bà L lạm dụng quyền đi lại thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà L hoặc ông Th có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Th hoặc bà L. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

2. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lâm Thị Mỹ L phải chịu300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0014127, ngày 02/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TU.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Lâm Thị Mỹ L và ông Biện Ngọc Duy Th có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2018/HNGĐ-ST ngày 18/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:82/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về