Bản án 82/2018/HNGĐ-ST ngày 07/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 82/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 07/11/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 635/2018/TLST - HNGĐ ngày 26/07/2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 125/2018/QĐXX-ST ngày 26/10/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1972 – có mặt. Địa chỉ: T, đồi 61, huyện Tr, tỉnh Đồng Nai

Bị đơn: Anh Đặng Danh V, sinh năm 1965 – xin xử vắng mặt. Địa chỉ: khối V, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An

Hiện đang thi hành án tại trại giam Đồng Sơn – tỉnh Quảng Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào đơn xin ly hôn và những lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn là chị Phạm Thị L trình bày: Về tình cảm: Chị L và anh Đặng Danh V có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 19/02/1994 tại UBND xã Â, huyện Đ, Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, anh V hay cờ bạc, không tu chí làm ăn, đã nhiều lần đánh vợ, ngược đãi vợ. Hiện nay anh V đang đi thi hành án tại trại giam Đồng Sơn, Quảng Bình. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã rất trầm trọng nên chị làm đơn xin ly hôn với anh V đề nghị Tòa án giải quyết.

Về con: Vợ chồng có 03 con chung là Đặng Danh Đ, sinh năm 1991, Đặng Thị H, sinh năm 1994 và cháu Đặng Thị Lệ Q, sinh năm 1996. Các con chung đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn, anh Đặng Danh V, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa vắng mặt nhưng có văn bản gửi cho Tòa án, anh V thừa nhận về thời gian, điều kiện kết hôn như chị Lý trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, hiện tại anh V đang đi thi hành án. Nay chị L làm đơn xin ly hôn anh thì đồng ý ly hôn vì anh xét thấy tình cảm với chị không còn.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Đặng Danh Đ, sinh năm 1991, Đặng Thị H, sinh năm 1994 và cháu Đặng Thị Lệ Q, sinh năm 1996. Các con chung đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau: Toà án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện các bước tố tụng đúng theo quy định của pháp luật, các đương sự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, yêu cầu khởi kiện là có căn cứ.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tình cảm: Cuộc hôn nhân giữa chị Phạm Thị L và anh Đặng Danh V được xây dựng trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hợp pháp cần được bảo vệ. Tuy vậy, vợ chồng chung sống với nhau thường xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do mâu thuẫn vợ chồng, tính tình không hợp, hiện tại đã sống ly thân do anh Văn đang đi thi hành án tại trại giam Đồng Sơn, Quảng Bình. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc hôn nhân giữa chị Phạm Thị L và anh Đặng Danh V trên thực tế không còn tồn tại, mục đích của Hôn nhân không đạt được. Xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị L là phù hợp pháp luật. Áp dụng điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao xử cho chị L được ly hôn với anh V là phù hợp với các qui định của pháp luật.

[2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Đặng Danh Đ, sinh năm 1991, Đặng Thị H, sinh năm 1994 và cháu Đặng Thị Lệ Q, sinh năm 1996. Các con chungđã trưởng thành, không  yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về quan hệ tài sản chung: Hai bên không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

 QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; điều 35, điều 228, điều 271, điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[1] Về quan hệ tình cảm: Xử cho chị Phạm Thị L được ly hôn với anh Đặng Danh V. [2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Đặng Danh Đ, sinh năm 1991, Đặng Thị H, sinh năm 1994 và cháu Đặng Thị Lệ Q, sinh năm 1996. Các con chung đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về quan hệ tài sản: Hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về án phí: áp dụng điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, buộc chị Phạm Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí LHST, (được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo BL số 0002694 ngày 24/07/2018).

[5] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án chị Phạm Thị L có quyền kháng báo bản án lên TAND tỉnh Nghệ An, anh Đặng Danh V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2018/HNGĐ-ST ngày 07/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:82/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về