Bản án 818/2017/HNGĐ-ST ngày 25/07/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUÂN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 818/2017/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 25 tháng 7 năm 2017 tại TAND quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 299/2017/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2017 về “Ly hôn” Quyết định đưa vụ án ra xét xử số83/2017/QĐST-HNGĐ ngày 19/6/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 199/2017/QĐST-HNGĐ ngày 06/7/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1966

Địa chỉ: 662/16/1/10 Đường M, Phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Dương Đình Q – sinh năm 1958

Địa chỉ: 662/16/1/10 Đường M, Phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn Nguyễn Thị L và bị đơn ông Dương Đình Q cùng tự nguyện tiến tới hôn nhân và chung sống với nhau vào năm 1991, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 90 của Ủy ban nhân dân Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30/12/1991. Bản chính giấy chứng nhận kết hôn đã bị thất lạc nên nguyên đơn không thể cung cấp cho Tòa án được.

Sau nhiều năm chung sống cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, nhất là sau khi nguyên đơn sinh thêm con thứ hai, bị đơn thường hay say xỉn nhiều lần xúc phạm đến danh dự thậm chí có hành vi đánh đập nguyên đơn trước mặt các con. Nguyên đơn nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn tình cảm được nên nguyên đơn khởi kiện xin ly hôn với bị đơn để ổn định cuộc sống riêng và chăm lo cho các con.

Về con chung: Nguyên đơn xác định cả hai có 02 con chung tên Dương Thị Vĩnh G, sinh ngày 13/9/1996, hiện đã trưởng thành và con chung Dương Thị Quế T, sinh ngày 05/11/2003. Sau khi ly hôn nguyên đơn yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Nguyên đơn yêu cầu được tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Nguyên đơn xác định không có.

Bị đơn không đến Tòa nên không ghi nhận được ý kiến. Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, yêu cầu nuôi con, không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết và nợ chung không có.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 90 của Ủy ban nhân dân Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30/12/1991 thì quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị L và ông Dương Đình Q là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được Luật Hôn nhân và Gia đình điều chỉnh.

Xét đơn khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Do bị đơn hiện đang cư trú tại Phường N, quận P căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Tân Bình.

 [2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự nên Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập bị đơn nhiều lần để tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ và tham gia phiên tòa nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắn g mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

 [3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Nguyên đơn yêu cầu được ly hôn với bị đơn vì cho rằng quan hệ hôn nhân giữa hai ông bà đã có nhiều mâu thuẫn trầm trọng và không thể hàn gắn. Nguyên nhân là do bị đơn không có trách nhiệm với gia đình, không chăm lo cho các con. Bị đơn thường hay say xỉn nhiều lần xúc phạm đến danh dự thậm chí có hành vi đánh đập nguyên đơn trước mặt các con. Hiện tại tình cảm vợ chồng không còn.

Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ sống chung với nhau, yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau; hiện nay mỗi người đã có cuộc sống riêng. Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn đến tòa để giải quyết vụ án nhưng bị đơng không đến, điều này thể hiện bị đơn hoàn toàn không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình. Xét, tình trạng hôn nhân của hai đương sự thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, không thể cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Nguyên đơn xác định cả hai có 02 con chung tên Dương Thị Vĩnh G, sinh ngày 13/9/1996, hiện đã trưởng thành và con chung Dương Thị Quế T, sinh ngày 05/11/2003. Sau khi ly hôn nguyên đơn yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con. Tại bản trình bày ý kiến ngày 18/4/2017, trẻ Dương Thị Quế T có nguyện vọng được ở với mẹ và hiện nay cũng đang sống chung với mẹ. Như vậy, nhằm tạo điều kiện cho các trẻ được ổn định, không bị xáo trộn về mặt tâm lý cũng như trong cuộc sống và căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ, Hội đồng xét xử giao con chung Dương Thị Quế T cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do hiện nay bị đơn vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn về tài sản chung và nợ chung. Vì vậy, về tài sản chung, nợ chung, Hội đồng xét xử không xem xét. Vấn đề này sẽ được xem xét, giải quyết bằng một vụ kiện khác khi có phát sinh tranh chấp.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) do nguyên đơn phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 207; Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 110, 116, 117, 118 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L;

1.1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị L và ông Dương Đình Q.

1.2. Về nuôi con chung:

Giao con chung Dương Thị Quế T, sinh ngày 05/11/2003 cho bà Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của ông Dương Đình Q do bà Nguyễn Thị L không có yêu cầu.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị L chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng

(Ba trăm ngàn đồng) do bà L đã nộp theo biên lai thu số 0012373 ngày 27/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Dương Đình Q được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 818/2017/HNGĐ-ST ngày 25/07/2017 về ly hôn

Số hiệu:818/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về