Bản án 818/2017/DS-ST ngày 28/12/2017 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 818/2017/DS-ST NGÀY 28/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 22 và 28/12/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 654/2014/TLST-DS ngày 07 tháng 10 năm 2014 về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 2278/2017/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 10 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2017/QĐST-DS ngày 27/11/2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Bùi M, sinh năm 1965; địa chỉ: Số 656/74/99 đường Q, Phường P, quận V, Thành phố H.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê D Luật sư Văn phòng luật sư Vthuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Bà Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1971 và ông Tạ Anh D, sinh năm 1963; cùng địa chỉ: Số 21/4A đường T, Phường C, quận G, Thành phố M.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Đinh Ngọc T, sinh năm 1982; địa chỉ: Số 417/3 đường L, Phường N, quận Z, Thành phố C(Theo Giấy ủy quyền 02/03/2017)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trịnh Thị B, sinh năm 1970; địa chỉ: Số 656/74/99 đường Q,Phường P, quận V, Thành  phố H.

2. Ngân hàng A, địa chỉ: Số 2 L, quận B, Thành phố N

Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng A: Ông Vũ Đức T, sinh năm1982, địa chỉ: Số 749/45/15/8A đường P, phườngXn, Quận Y, Thành phố Mđại diện theo ủy quyền

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 16/9/2014 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Ông Bùi M trình bày:

Vào ngày 04/12/2007 ông và Bà Nguyễn Ngọc C, ông Tạ Anh D có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lô đất có diện tích 43,9m2  thuộc thửa đất số 541, tờ bản đồ số 67 thuộc Phường 11, quận Gò Vấp với giá là 300.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng bằng giấy tay ông đã giao cho bà Châu, ông D 250.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận sau khi ông D, bà C tiến hành xong các thủ tục tách thửa, cấp giấy chứng nhận cho thửa đất trên thì ông sẽ giao hết số tiền còn lại là 50.000.000 đồng. Tuy nhiên sau khi hoàn tất các thủ tục tách thửa, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông D, bà C lại bán thửa đất trên cho người khác. Nay ông yêu cầu ông D, bà Cphải trả lại toàn bộ số tiền mua bán là 250.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại cho ông theo tỷ lệ giá mà Hội đồng định giá đã định, yêu cầu duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408/2017/QĐ-BPKCTT ngày 11/4/2017 và Thông báo sửa chữa số 82/2017/QĐ-SCBS ngày 22/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấpđể đảm bảo thi hành án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là Bà Nguyễn Ngọc C, ông Tạ Anh D do Ông Đinh Ngọc T là đại diện hợp pháp trình bày:

Bà Châu, ông D xác nhận có bán cho Ông Mmột nền đất có diện tích khoảng 43,68 m2. Nay Ông  Myêu cầu trả lại toàn bộ số tiền mua bán là 250.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại. Bà Châu, ông D không đồng ý vì việc mua bán đã đứt đoạn. Tại phiên tòa ông Tường trình bày trong 17 nền đất tại địa chỉ số 58/4A đường Lê Văn Thọ, Phường 11, quận Gò Vấp thì ông D có 01 nền (lô số 3), bà C có 01 nền (lô số 4). Theo quy định thì nền số 4 là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, tuy nhiên theo hợp đồng ủy quyền ngày 20/4/2011 thì chỉ có bà Củy quyền cho bà Hợp được quyền tiến hành các thủ tục pháp lý và bán, chuyển nhượng, tặng cho. Như vậy, việc phòng công chứng chấp thuận cho bà Hợp là người đại diện theo ủy quyền của bà Cbán phần đất này cho người khác là sai. Do đó về ý chí, bà C không hề ủy quyền cho bà Hợp để bán nền đất số 4 mà bà chỉ ủy quyền cho bà Hợp để bán nền đất số 3 với tư cách là sở hữu chung nền đất lô số 3 với ông D. Lý do tại sao phần đất số 4 này lại bán cho người khác thì bà C không biết. Ngoài ra bà Châu, ông D khẳng định đã giao đất cho ông Mạnh, còn giấy tờ pháp lý của thửa đất thì ông bà vẫn đang giữ. Đề nghị Tòa hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408 ngày 11/04/2017 và Thông báo sửa chữa số 82 ngày 22/05/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Tại bản tự khai ngày 31/8/2016 Bà Trịnh Thị B trình bày:

Bà xác nhận số tiền mua đất giữa chồng bà là Ông Bùi M với vợ chồng bà Châu, ông D là tiền chung của vợ chồng. Bà thống nhất ý kiến của ông D và không có ý kiến gì khác.

- Tại bản tự khai ngày 01/08/2017 Ngân hàng A do Ông Vũ Đức T là đại diện hợp pháp trình bày:

Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408 ngày 11/04/2017 và thông báo sửa chữa số 82 ngày 22/05/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp thì Ngân hàng có ý kiến như sau: Tại thời điểm Ngân hàng nhận thế chấp tài sản của ông D và bà Cđể đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của ông bà theo hợp  đồng  thế  chấp số 1607-LCL-201600746 ngày 27/07/2016 vay số tiền 7.000.000.000 đồng thì tài sản này không có thông tin tranh chấp và ngân hàng đã hoàn tất thủ tục thế chấp đúng theo quy định của pháp luật do đó đề nghị Tòa án hủy quyết định khẩn cấp tạm thời trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408/2017/QĐ-BPKCTT ngày 11/4/2017 Viện kiểm sát nhận thấy: Tài sản bị phong tỏa lớn hơn so với số tiền mà nguyên đơn yêu cầu và tài sản này đang được thế chấp tại ngân hàng, do đó Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này là chưa chính xác. Tuy nhiên do thời hiệu để Viện kiểm sát kiến nghị đối với Quyết định này đã hết, nhưng tại phiên tòa hôm nay, đại diện ngân hàng yêu cầu hủy bỏ thì Viện kiểm sát cũng yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408/2017/QĐ-BPKCTT ngày 11/4/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Ngày 04/12/2007 Ông Bùi M và bà Nguyễn Thị Ngọc C, ông Tạ Anh D có ký hợp đồng mua bán nhà đất với diện tích là 4m x 10,92m = 43,68m2  tại số 58/4A đường Lê Văn Thọ, quận Gò Vấp với giá 300.000.000 đồng, theo thỏa thuận Ông Mđã đưa trước 250.000.000 đồng, còn 50.000.000 đồng sau khi thực hiện việc tách thửa sẽ giao nốt.Tuy nhiên trên thực tế, hai bên chưa giao nhận đất, nguyên đơn chỉ mới giao 250.000.000 đồng và còn giữ lại 50.000.000 đồng do đó hợp đồng này xác định là hợp đồng đặt cọc mua bán quyền sử dụng đất. Mặc dù trong hợp đồng các bên không thỏa thuận việc bồi thường đặt cọc hoặc mất cọc nhưng phía bị đơn sau khi ký hợp đồng đặt cọc với nguyên đơn lại ủy quyền cho bên thứ ba được quyền chuyển nhượng phần đất này. Đây là lỗi hoàn toàn của phía bị đơn làm cho hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện được, do đó bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Căn cứ điều 358 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 127 Luật đất đai năm 2003 chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả số tiền cọc là 250.000.000 đồng và bồi thường tiền cọc 250.000.000 đồng cho nguyên đơn.

- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày

Việc hai bên không tiếp tục thực hiện được hợp đồng hoàn toàn là do lỗi phía ông D, bà Cnên đề nghị Hội đồng xét xử buộc bà Châu, ông D phải trả cho Ông Msố tiền 250.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng với số tiền là 1.677.517.300 đồng. Tổng cộng là 1.927.517.300 đồng. Đồng thời yêu cầu duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408/2017/QĐ-BPKCTT ngày 11/4/2017 và Thông báo sửa chữa số 82 ngày 22/05/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1.  Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ông Mcó tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Châu, ông D, bà Châu, ông D, bất động sản tọa lạc tại quận gò Vấp. Căn cứ Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận gò Vấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bà Trịnh Thị B vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin được vắng mặt trong các buổi xét xử tại Tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà Ba.

2. Về nội dung:

- Đối với yêu cầu của Ông Myêu cầu ông D, bà Cphải trả lại toàn bộ số tiền mua bán là 250.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại cho ông theo tỷ lệ giá mà Hội  đồng định giá đã định là 1.677.517.300 đồng. Tổng cộng là 1.927.517.300 đồng. Hội đồng xét xử nhận thấy:

Mặc dù diện tích tại thời điểm mua bán là 4m x 10,92m = 43,68 m2  và diện tích hiện tại được công nhận là 43,9m2. Tuy nhiên do tại thời điểm 2 bên mua bán là mua trọn nền đất và tại thời điểm mua bán lô đất này chưa được tách thửa nên việc đo đạc không chính xác do đó Tòa án xác định diện tích là 43,9m2 như trên giấy chủ quyền đã công nhận.

Do phía nguyên đơn và bị đơn chỉ tranh chấp số tiền mua bán đất, nguyên đơn không có yêu cầu lấy đất nên Hội đồng xét xử không đưa những người đã có giao dịch mua bán căn nhà này, những người đang đứng tên chủ sở hữu của căn nhà hiện nay và những người đang cư ngụ tại căn nhà tham gia với tư cách người có quyền lợi liên quan trong vụ án.

Xét, đối tượng tranh chấp của vụ án là giá trị thửa đất mà Ông Mmua của ông D, bà Ccó nguồn gốc là một phần trong thửa đất số 64 (thửa cũ 75), tờ bản đồ số 67 theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 228/2003 ngày 15/01/2003 do Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp cấp cho bà Phan Thị Dương. Ngày 29/4/2003 bà Dương chuyển nhượng cho ông Mai Thế Chương. Ngày 07/11/2003 ông Chương bán lại 17 người trong đó có ông D và bà Châu, mỗi người mua 01 nền. Sau đó 16 người mua đất (trừ ông Trần Quang Huy) cùng ủy quyền cho bà Mỵ Thị Phương Hợp được quyền chuyển nhượng phần đất của mình cho người khác, căn cứ vào hợp đồng ủy quyền này bà Hợp đã thay mặt 16 chủ đất chuyển nhượng cho ông Nguyễn Ngọc Minh. Sau đó ông Huy,ông Minh  tiến hành thủ tục tách thửa, ông Huy đứng tên chủ sở hữu thửa đất 532, ông Minh đứng tên chủ sở hữu thửa đất 533. Tháng 4/2014 ông Minh chuyển nhượng cho ông Lý Thiết Hùng và ông Nguyễn Văn Thắng, sau đó ông Hùng và ông Thắng đã tách thửa 533 thành 15 thửa trong đó có thửa 541(phần đất thuộc nền số 4 mà ông D, bà Cbán cho ông Mạnh), sau khi tách thửa ông Hùng, ông Thắng chuyển nhượng thửa đất 541 cho bà Trần Ngọc Ánh, đến tháng 4/2017 bà Ánh tặng cho nhà đất cho bà Phan Thanh Xuân, và thửa đất trên hiện nay mang số nhà 107/33/153 đường Lê Văn Thọ, Phường 11, quận Gò Vấp đang đứng tên chủ sở hữu là bà Phan Thanh Xuân.

Tại thời điểm hai bên tiến hành giao dịch thì thửa đất chưa được tách thửa, bên bán là ông D, bà Cchưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, như vậy giao dịch giữa 2 bên là vô hiệu tại thời điểm hai bên tiến hành giao dịch với nhau, tuy nhiên để xác định lỗi bên nào làm cho giao dịch không tiến hành được thì cần phải cân nhắc. Theo hợp đồng hai bên thỏa thuận thì phía bà C có trách nhiệm tiến hành thủ tục tách thửa và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mạnh. Tuy nhiên sau khi bán cho Ông M thì ngày 06/5/2009 ông D, ngày 20/4/2011 bà C lại ủy quyền cho bà Mỵ Thị Phương Hợp được quyền thay mặt ông D, bà C quản lý, sử dụng, cho thuê, thanh lý hợp đồng thuê, thế chấp, thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ cho bên thứ ba, xóa thế chấp, xin phép xây dựng ………. bán, chuyển nhượng hoặc tặng cho, hủy hợp đồng bán, chuyển nhượng hoặc hủy hợp đồng tặng cho, hủy hợp đồng tặng cho (kể cả trước và sau khi xây dựng, hoàn công, cấp đổi chủ quyền) đối với phần thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bên A trong căn nhà và quyền sử dụng đất tại số 58/4A đường Lê Văn Thọ, Phường 11, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ vào hợp đồng ủy quyền trên thì bà Hợp đã tiến hành thủ tục tách thửa đối với căn nhà số 58/4A đường Lê Văn Thọ, Phường 11, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi đã tách thửa, bà Hợp với tư cách là đại diện theo ủy quyền của ông D bà Cđã bán phần đất của ông bà cho ông Nguyễn Ngọc Minh.

Như vậy có thể thấy việc làm cho hợp đồng không thể thực hiện trên thực tế hoàn toàn là do lỗi phía ông D, bà Châu, bởi lẽ sau khi hai bên tiến hành giao dịch với nhau ông D, bà Cđã nhận tiền bán đất của ông mà lại ủy quyền cho bà Mỵ Thị Phương Hợp được quyền chuyển nhượng thửa đất sau khi được cấp giấy chứng nhận là không đúng, do đó đã dẫn đến việc bà Hợp với tư cách là đại diện theo ủy quyền của ông D, bà Cđã chuyển nhượng thửa đất cho ông Minh, sau đó ông Minh đã chuyển nhượng cho nhiều người.

Từ nhận định trên Hội đồng xét xử nhận định lỗi làm cho giao dịch không thực hiện được hoàn toàn do phía ông D, bà Châu, nên thiệt hại làm hợp đồng không thực hiện ông D, bà C phải chịu toàn bộ.

Việc bị đơn cho rằng trong 17 nền đất thì ông D sở hữu 01 nền (số 3), bà Csở hữu 1 nền (số 4) như vậy nền số 4 là thuộc sở hữu của hai vợ chồng mà chỉ có bà Củy quyền cho bà Hợp nên bà Hợp đã bán phần diện tích đất cho người khác khi chưa có sự đồng ý của ông D là sai. Xét tại hợp đồng ủy quyền số 9473 quyển số 04 ngày 20/4/2011 tại Phòng công chứng số5, Thành phố Hồ Chí Minh nội dung bà Củy quyền cho bà Hợp được quyền thay mặt bà Cbán, chuyển nhượng……. đối với phần thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bà Ctrong căn nhà và quyền sử dụng đất tại số 58/4A đường Lê Văn Thọ, Phường 11, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng như vậy, tại hợp đồng ủy quyền số 12092 quyển số 05 ngày 06/2/2009 tại phòng công chứng số 5, ông Tạ Anh D cũng ủy quyền cho bà Hợp với nội dung như trên. Như vậy điều này đã thể hiện ông D và bà Cđã ủy quyền cho bà Hợp được toàn quyền đối với phần thuộc sở hữu, quyền sử dụng của ông D, bà Ccho bà Hợp trong căn nhà và quyền sử dụng đất tại số 58/4A Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp, tức bao gồm cả nền đất số 3 và nền đất số 4 mà cả ông D, bà C được quyền sử dụng. Do đó không chấp nhận phần trình bày của bị đơn về việc bị đơn cho rằng bị đơn không ủy quyền cho bà Hợp bán nền đất số 4.

Xét khi hai bên mua bán thỏa thuận ông D, bà Cbán cho Ông M một lô đất có diện tích là 43,9m2, là lô số 4 theo bản đồ hiện trạng vị trí do công ty TNHH đo đạc và dịch vụ Thịnh Phát đo vẽ ngày 17/11/2003, hai bên thống nhất lô số04 hiện nay là căn nhà mang số 107/33/153 đường Lê Văn Thọ, Phường 11, quận Gò Vấp do bà Phan Thanh Xuân là chủ sở hữu.

Theo biên bàn định giá ngày 18/5/2017 Hội đồng định giá đã xác định vị trí thửa đất 2 bên đang tranh chấp thuộc vị trí 3, Đường số 11, Phường 11, quận Gò Vấp và địa chỉ thửa đất là căn nhà số 58/4A đường Lê Văn Thọ, Phường 11, quận Gò Vấp có giá trị 1m2 là 52.900.000 đồng. Hiện nay sau khi tách thửa và được cấp giấy chứng nhận thì thửa đất đưọc công nhận là 43,9m2. Phía ông D, bà Cmặc dù không đồng ý với giá mà Hội đồng định giá đã định vì cho là cao so với giá thị trường, tuy nhiên ông D, bà Ckhông yêu cầu định giá lại, do đó Hội đồng xét xử thống nhất với giá mà Hội đồng định giá đã định là 52.900.000 đồng/m2.

Tại phiên tòa hai bên thống nhất giá thỏa thuận sang nhượng là 300.000.000 đồng, phía Ông Mđã giao cho ông D, bà Cđược 250.000.000 đồng nên tỷ lệ là 83%.

Như vậy giá chênh lệch bằng: giá đất hiện nay là 43,9 x 52.900.000 đồng/m2= 2.322.310.000 đồng trừ giá hợp đồng là 300.000.000 đồng nhân tỷ lệ 83% = 1.677.517.300 đồng. Do xác định lỗi hoàn toàn từ phía ông D, bà C nên ông D, bà Cphải bồi thường cho Ông M là 1.677.517.300 đồng và phải hoàn lại số tiền đã nhận 250.000.000 đồng cho ông Mạnh. Tổng cộng là 1.927.517.300 đồng.

Đối với yêu cầu của đại diện ngân hàng Hội đồng xét xử nhận thấy: Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là chỉ áp dụng đối với phần còn lại của tài sản thế chấp sau khi đã tất toán các khoản vốn và lãi của Hợp đồng tín dụng số 1607-LAV-201600308 ngày 15/4/2016 của ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn nên không ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng. Do đó Hội đồng xét xử vẫn giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408/2017/QĐ-BPKCTT ngày 11/4/2017.

Ông Mđược nhận lại số tiền 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng đảm bảo yêu cầu theo giấy xác nhận số dư sổ tiết kiệm ngày 11/4/2017 tại Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh Phan Đình Phùng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Đối với phần trình bày của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận thấy: Như trên đã phân tích việc Tòa án áp dụng Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là chỉ áp dụng đối với phần còn lại của tài sản thế chấp sau khi đã tất toán các khoản vốn và lãi của Hợp đồng tín dụng nên không ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng. Do đó Hội đồng xét xử vẫn giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408/2017/QĐ-BPKCTT ngày 11/4/2017 và Thông báo sửa chữa số 82/2017/QĐ-SCBS ngày 22/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị do bên mua chưa giao hết tiền cho bên bán và bên mua cũng chưa nhận đất nên cần xác định đây là hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng đất. Xét cả nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận hợp đồng giữa hai bên là hợp đồng mua bán đất chứ không phải hợp đồng đặt cọc, việc bên mua chưa giao hết tiền cho bên bán là để ràng buộc trách nhiệm của bên bán phải có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục tách thửa cũng như hoàn tất thủ tục mua bán với bên mua. Như vậy không thể xem đây là hợp đồng đặt cọc mà phải xác định là hợp đồng mua bán nhà và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại như trên đã phân tích. Do đó không chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

3. Về án phí:

Do yêu cầu của Ông M đươc chấp nhận nên ông D, bà  chịu án phí dân sự sơ thẩm là 69.855.519 đồng. Hoàn lại cho Ông M tiền tạm nộp án phí là 7.500.000 đồng theo biên lai tạm nộp án phí số 0002027 ngày 07/10/2014của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng  các khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 33, Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 697, Điều 699, khoản 2 Điều 305 của Bộ luật dân sự năm 2005; Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004; Điều 26 Luật thi hành án dân sự có hiệu lực ngày 01/7/2009; Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12ngày 27/02/2009 về án phí, lệ phí toà án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu của Ông Bùi M:

Hủy hợp đồng mua bán nhà đất đươc giao kết bằng giấy viết tay vào ngày 04/12/2007 ký giữa Ông Bùi M và Bà Nguyễn Ngọc C, ông Tạ Anh D đối với lô đất số 4 bản đồ hiện trạng vị trí do công ty TNHH đo đạc và dịch vụ Thịnh Phát đo vẽ ngày 17/11/2003 và hiện nay là căn nhà mang số 58/4A đường Lê Văn Thọ, phường 11, quận Gò Vấp do bà Phan Thanh Xuân là chủ sở hữu.

Buộc ông Tạ Anh D và Bà Nguyễn Ngọc C trả lại cho Ông Bùi M số tiền đã nhận và tiền thiệt hại do trượt giá tổng cộng là 1.927.517.300 (Một tỷ chín trăm hai mươi bảy triệu năm trăm mười bảy ngàn ba trăm) đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày Ông Mcó đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông D, bà Cchưa thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng ông D, bà Ccòn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được thực hiện theo quy định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí:

Ông D, bà Cphải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 69.825.519 đồng, hoàn lại cho Ông M tiền tạm nộp án phí là 7.510.000 đồng theo biên lai tạm nộp án phí số 0002027 ngày 07/10/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp.

3. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 408/2017/QĐ-BPKCTT ngày 11/4/2017 và Thông báo sửa chữa số 82/2017/QĐ-SCBS ngày 22/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.

Ông M được nhận lại số tiền 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng đảm bảo yêu cầu theo giấy xác nhận số dư sổ tiết kiệm ngày 11/4/2017 tại Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh Phan Đình Phùng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Thời hạn kháng cáo của ông Mạnh, ông D, bà Cvà Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Thời hạn kháng cáo của bà Ba là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo các qui định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

462
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 818/2017/DS-ST ngày 28/12/2017 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Số hiệu:818/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về