Bản án 81/2021/HS-ST ngày 27/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 81/2021/HS-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2021/TLST- HS ngày 19 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2021/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2021/QĐST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: LƯỜNG VĂN V, sinh năm 197x; Trú tại: Bản H, xã C, huyện Y, tỉnh S; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lường Văn Ơ (đã chết) và bà: Lường Thị H; Có vợ: Quàng Thị D (đã ly hôn); Có 01 con, sinh năm 2010;

Tiền án, tiền sự: không Nhân thân:

Ngày 10/12/1997, Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản công dân (đã xóa án tích).

Ngày 24/6/1999, Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xử phạt 38 tháng tù giam về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội Trộm cắp tài sản công dân (đã xóa án tích).

Ngày 29/8/2003, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 06 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/12/2020 đến nay tòa.- Có mặt tại phiên –

 Người bào chữa cho bị cáo: Bà Chu Thị Thành - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 21 giờ 45 phút ngày 25/12/2020, Tổ công tác Công an xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Bãi, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội phát hiện bị cáo Lường Văn V có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, Tổ công tác phát hiện và thu giữ trong túi áo khoác phía trong bên trái của V có 01 gói giấy bạc màu trắng kích thước (1x1)cm bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng rồi đưa Lường Văn V về trụ sở để tiếp tục đấu tranh làm rõ. Ngoài ra còn tạm giữ của V: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmast màu đen lắp sim số thuê bao 1: 0852588696, số thuê bao 2: 0348189358.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Lường Văn V khai nhận:

Khong 20 giờ 00 phút ngày 25/12/2020, do có nhu cầu sử dụng Heroine nên V đã đi ra khu vực ngã 4, thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội thuê 01 nam giới hành nghề xe ôm (bị cáo không quen biết) chở đến khu vực thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Người này đồng ý, khi đến thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, V xuống xe và bảo người lái xe ôm này đứng chờ, còn V đi đến gặp và mua của 01 người phụ nữ (bị cáo không rõ lai lịch) đang đứng ở ven đường 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, V quay lại nơi người xe ôm đang đứng đợi và bảo người này chở về thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Khi đi đến khu vực xóm Bãi, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, người lái xe ôm dừng xe và yêu cầu V trả tiền công chở xe ôm để anh ta đổ xăng xe. Khi V xuống xe và đưa cho người này 50.000 đồng để đổ xăng thì có lực lượng Công an đến yêu cầu kiểm tra hành chính. Lúc này người lái xe ôm phóng xe bỏ chạy, còn V bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ.

Cơ quan điều tra, Công an huyện Đông Anh đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với vật chứng thu giữ của Lường Văn V. Tại bản Kết luận giám định số 82/KLGĐ-PC09 ngày 04/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,196 gam.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Lường Văn V và người đàn ông lái xe ôm chở V đi mua ma túy do V khai không biết họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Lường Văn V, cán bộ niêm phong và Giám định viên bên trong có 0,181 gam ma túy Heroine (sau trích mẫu giám định 0,015 gam); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen lắp sim số thuê bao 0852588696 và số thuê bao 0348189358 thu giữ của V là vật chứng của vụ án, chuyển Tòa án nhân dân huyện Đông Anh giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cáo trạng số 71/CT-VKSĐA ngày 14/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Lường Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Lường Văn V đã thành khẩn khai nhận hành vi như nội dung Cáo trạng đã nêu, bị cáo đã ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Người bào chữa của bị cáo xác định việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và đề nghị xét xử bị cáo mức án 12 tháng tù.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lường Văn V mức án từ 16 đến 20 tháng tù. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ, tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart kèm sim. Và quyết định về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật Lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận, xin Tòa xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm được về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Lường Văn V khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Hội đồng xét xử xét thấy: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, cùng Biên bản khám người theo thủ tục hành chính, Biên bản tạm giữ đồ vật, Sơ đồ hiện trường và Kết luận giám định chất ma túy cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 25/12/2020, bị cáo Lường Văn V đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,196 gam ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an bắt giữ tại khu vực xóm Bãi, xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Lường Văn V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật, đúng người và đúng tội.

Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Bị cáo có 03 tiền án đã được xóa nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Ma túy là chất dễ gây nghiện, tạo ảo giác, khiến người sử dụng không kiểm soát được hành vi của bản thân, gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của người sử dụng, làm lây lan một số căn bệnh xã hội nguy hiểm và là nguyên nhân phát sinh một số loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn cố ý phạm tội; bị cáo có 03 tiền án, trong đó có 01 tiền án về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về ma túy thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo nên cần xử lý nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét thái độ khai báo của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy, cần xử phạt bị cáo mức án tù trong khung hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng phòng ngừa tội phạm ma túy nói riêng và các tội phạm khác nói chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Lường Văn V và người đàn ông lái xe ôm chở V đi mua ma túy do V khai không biết họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.

[7] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số lượng chất ma túy thu giữ của Lường Văn V là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen lắp sim số thuê bao 0852588696 và số thuê bao 0348189358 thu giữ của Lường Văn V cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa của bị cáo tại phiên tòa về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo chưa tương xứng với tính chất, mức độ và nhân thân của bị cáo như Hội đồng xét xử đã nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo mức án cao hơn mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng phòng ngừa tội phạm ma túy nói riêng và các tội phạm khác nói chung.

Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lường Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Lường Văn V 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2020.

Căn cứ vào: Điều 47; khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 136; Điều 329; Điều 331; Điều 333, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Tịch thu, tiêu hủy: 0,181 gam ma túy loại Heroine được niêm phong trong một phong bì có chữ ký của Lường Văn V, Giám định viên và cán bộ niêm phong có đặc điểm, tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/4/2021 giữa Cơ quan điều tra, Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen, lắp sim số 0852588696 và số 0348189358, số Imei1: 359869100034565, số Ime21: 359869100034664 có đặc điểm, tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/4/2021 giữa Cơ quan điều tra, Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Bị cáo Lường Văn V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2021/HS-ST ngày 27/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về