Bản án 81/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

 BẢN ÁN 81/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 11 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 96/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:167/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Hồng L, sinh năm 1990; cư trú tại: Ấp H, xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Trương Bá Ph, sinh năm 1976; cư trú tại: Ấp Th, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Chị Nguyễn Hồng L trình bày: Chị và anh Trương Bá Ph được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Lợi, huyện Giồng Riềng vào ngày 28/4/2017. Vợ chồng sống hạnh Ph và sinh được cháu Trương Hải Đăng, sinh ngày 19/9/2018. Thời gian chung sống thì vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh Ph nhiều lần chửi mắn, đánh đập chị, nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 8 năm 2020 cho đến nay. Hiện tại chị không còn thương anh Ph nên xin được ly hôn. Chị yêu cầu được nuôi cháu Đăng, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng. Thời gian chung sống vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung.

- Anh Trương Bá Ph trình bày: Anh thống nhất nội dung về các mối quan hệ hôn nhân mà chị L trình bày. Tuy nhiên, mâu thuẫn vợ chồng là do chị L không chung thủy. Do cuộc sống không còn hạnh Ph nên anh đồng ý ly hôn. Còn con chung thì anh xin được nuôi, không yêu cầu chị L cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Trường Bá Ph đã được triệu tập hợp L đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về hôn nhân: Chị L xin ly hôn, anh Ph đồng ý. Thấy rằng: Anh, chị trình bày mâu thuẫn vợ chồng là không đồng nhất với nhau, tuy nhiên cả hai đều thừa nhận không còn thương yêu nhau, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, cho chị và anh Ph ly hôn là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị L và anh Ph đều có nguyện vọng được nuôi con. Anh Ph cho rằng sau khi vợ chồng ly thân thì anh về ở chung với mẹ và em trai, mẹ có cho anh diện tích đất 1,5ha, có thu nhập ổn định. Trong khi vợ anh không nghề nghiệp, nhà ở hay đi chơi, uống rượu không dành thời gian chăm sóc con; gia đình bên vợ thường bất hòa, vi phạm pháp luật. Chị L phủ nhận các nội dung anh đặt ra và tại phiên tòa cung cấp các chứng cứ thể hiện chị có việc làm và thu nhập ổn định; gia đình chị có công với cách mạng; các anh, chị của chị làm việc trong lực lượng vũ trang và cơ quan hành chính nhà nước. Tại phiên tòa anh Ph vắng mặt, không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh anh có tài sản và thu nhập như anh trình bày. Thấy rằng: Việc giao con cho một bên vợ hoặc chồng nuôi dưỡng đều phải xem xét đảm bảo các điều kiện cho con phát triển toàn diện về mọi mặt. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình quy đinh: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con...”. Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ mà anh chị chứng minh thì chị L có đủ điều kiện để nuôi con hơn anh Ph. Trong khi đến thời điểm xét xử cháu Đăng dưới 36 tháng tuổi, cần có sự chăm sóc của mẹ. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị L, buộc anh Ph giao cháo Đăng cho chị L nuôi dưỡng là phù hợp. Do chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh Ph xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Do yêu cầu được chấp nhận nên chị L phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 56, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, Lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Hồng L. Cho chị Nguyễn Hồng L được ly hôn với anh Trương Bá Ph.

2. Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Hồng L. Buộc anh Trương Bá Ph giao cháu Trương Hải Đăng, sinh ngày 19/9/2018 cho chị Nguyễn Hồng L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trương Bá Ph có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Hồng L phải chịu 300.000 đồng. Chị L đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm theo biên lai thu tiền số 0011897 ngày 12/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi, chị L đã nộp đủ án phí hôn nhângia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị L có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Ph có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 81/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:81/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về