Bản án 81/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - NINH BÌNH

BẢN ÁN 81/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 25 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình tiến hành mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 78/2020/HSST ngày 26/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2020/QĐXX - HS ngày 14/12/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nhữ Quang C, sinh năm 1998; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ở và ĐKNKTT: Thôn M, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Trần Văn D (đã chết) và bà Vũ Thị T; Bố nuôi Nhữ Quang C, mẹ nuôi Vũ Thị D; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/10/2020 đến ngày 04/10/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam C an tỉnh Ninh Bình. Bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bùi Văn Hòa, sinh năm 1998. Trú tại Thôn M, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

Người m chứng: Nhữ Quang C, sinh năm 1947 (có mặt); Đinh Văn T; sinh năm 1972; An Văn H, sinh năm 1962; Vũ Thị T; sinh năm 1965; Bùi Văn H; sinh năm;

1978. Tất cả người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhữ Quang C là người nghiện ma túy, loại Heroine: Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 30/9/2020, C từ nhà đi nhờ xe của người đi đường không quen biết đến nhà anh Bùi Văn H sinh năm 1998 ở thôn M, xã G, huyện N chơi. Sau đó C mượn xe mô tô biển kiểm soát 35N1-336.78 của anh H đi về nhà. Khoảng 12 giờ ngày 01/10/2020, Nhữ Quang C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35N1-336.78 từ nhà đi đến xã G, huyện N để tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đi đến khu vực đường liên thôn thuộc địa phận thôn M, xã G, huyện N thì Nhữ Quang C đã gặp một người nam giới (C không biết tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng ở ven đường trông giống người nghiện ma túy. C đi lại gần người nam giới và hỏi:“Anh có hàng không bán cho em hai trăm” người nam giới hiểu ý liền nói: “Có, đưa tiền đây”. Nhữ Quang C lấy số tiền 200.000 đồng đưa cho người nam giới, người này cầm tiền rồi đưa cho C 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. C mở ra kiểm tra bên trong xác định đúng là Heroine nên đã gói lại và cầm gói Heroine vừa mua được bỏ vào túi quần sau bên trái rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà.

Hồi 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi Nhữ Quang C điều khiển xe mô tô đi về đến khu vực đường liên thôn thuộc địa phận thôn 9, xã G, huyện N đã gặp Tổ Công tác công an xã G đang làm nhiệm vụ tuần tra đi đến và yêu cầu C dừng xe lại để kiểm tra. Do sợ bị phát hiện đang cất giấu trái phép Heroine trên người nên khi dừng xe lại Nhữ Quang C đã tự móc từ trong túi quần phía sau bên trái của mình ra 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ để giao nộp cho Tổ Công tác đồng thời khai nhận là Heroine vừa mua về để sử dụng. Tổ Công tác đã lập biên bản và thu giữ của Nhữ Quang C 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy màu màu trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. Ngoài ra Tổ Công tác còn thu giữ của C 01 xe mô tô biển kiểm soát: 35N1-336.78.

Cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy màu màu trắng có dòng kẻ thu giữ của Nhữ Quang C có khối lượng 0,11 gam ký hiệu M để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 260/KLGĐ-PC09-MT ngày 03/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1275 (không phẩy một nghìn hai trăm bảy mươi lăm) gam, là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,0568 gam, là mua túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong 01 phong bì theo quy định của pháp luật, trên mặt phong bì có ghi số 260/KLGĐ-PC09-MT.

Tại bản cáo trạng số 78 /CT-VKSNQ-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Nhữ Quang C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” - Quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử : Tuyên bố bị cáo Nhữ Quang C - phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự .

Xử phạt bị cáo Nhữ Quang C từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 01/10/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nhữ Quang C vì hành vi tàng trữ Heroine của bị cáo không nhằm mục đích vụ lợi.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì được niem phong theo quy định là mẫu vật hoàn trả theo kết luận giám định số 260/KLGĐ-PC09-MT ngày 3/10/2020 bên trong có khối lượng chất bột dạng cục màu trắng còn lại ký hiệu M là 0,0568 gam là mua túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong cũ.

- 01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói , phong bì niêm phong cũ , phong bì niêm phong ký hiệu là C.

- 01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói và que thử nước tiểu tìm chất ma tuý ngày 1/10/2020 của Nhữ Quang C Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo.

Bị cáo C không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Việc tàng trữ ma túy của bị cáo là vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dimg vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nhữ Quang C không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với: Nội D của bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố; Lời khai của bị cáo, người làm chứng và vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án; Biên bản bản người phạm tội quả tang; bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa đã có đủ chứng cứ xác định: Sau khi Nhữ Quang C dùng 200.000 đồng mua 01 gói Heroine của một người đàn ông không quen biết và bỏ vào túi quần sau bên trái rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Vào hồi 12 giờ 30 phút 30/9/2020 tại khu vực đường liên thôn thuộc địa phận thôn 9, xã G, huyện N. Bị cáo C đã tự giác giao nộp choTổ Công tác Công an xã G đang làm nhiệm vụ tuần tra 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy màu màu trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng Heroine được gói ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ và khai nhận là Heroine vừa mua về để sử dụng.

Hành vi tàng trữ trái phép lượng 0,1275 (không phẩy một nghìn hai trăm bảy mươi lăm) gam là ma túy, loại Heroine của bị cáo Nhữ Quang C nhằm mục đích sử dụng cho bản thân đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy được pháp luật bảo vệ (quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ quy định danh mục chất ma túy và tiền chất). Là một trong các nguyên nhân dẫn đến tội phạm và tệ nạn xã hội khác , bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.Từ những quy định của Pháp luật hình sự, Hội đồng xét xử, xác định đã có đủ cơ sở pháp lý, khẳng định: Hành vi, tội danh và các khoản, điều luật áp dụng tại bản cáo trạng, bản luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ pháp luật. Vì vậy Hội đồng xét xử kết luận: Hành vi mà bị cáo Nhữ Quang C thực hiện đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Do đó phải xử lý nghiêm minh bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải tiếp tục cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra để góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Trước khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử đã căn cứ vào quy định của pháp luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự .

Về nhân thân bị cáo: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về Tình tiết giảm nhẹ: Trong qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có bố nuôi là ông Nhữ Quang C được nhà Nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản , khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo được giảm một phần về hình phạt.

3. Các vấn đề khác. Trong vụ án này, kết quả điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người nam giới đã bán heroine cho cáo Nhữ Quang C nên không có căn cứ để xử lý, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo C vì bị cáo là người nghiện ma túy mua Heroine với mục đích sử dụng.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 35N1- 336.78 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Bùi Văn H cho C mượn không biết C sử dụng xe mô tô đi mua ma túy về sử dụng. Xét việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho anh H là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với 01 phong bì được niem phong theo quy định là mẫu vật hoàn trả theo kết luận giám định số 260/KLGĐ-PC09-MT ngày 3/10/2020 bên trong có khối lượng chất bột dạng cục màu trắng còn lại ký hiệu M là 0,0568 gam là mua túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong cũ.

01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói, phong bì niêm phong cũ, phong bì niêm phong ký hiệu là C.

01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói và que thử nước tiểu tìm chất ma tuý ngày 1/10/2020 của Nhữ Quang C là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nhữ Quang C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nhữ Quang C 5 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 01/10/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy :

- 01 phong bì được niem phong theo quy định là mẫu vật hoàn trả theo kết luận giám định số 260/KLGĐ-PC09-MT ngày 3/10/2020 bên trong có khối lượng chất bột dạng cục màu trắng còn lại ký hiệu M là 0,0568 gam là mua túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong cũ.

- 01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói, phong bì niêm phong cũ, phong bì niêm phong ký hiệu là C.

- 01 phong bì được niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong là vỏ gói và que thử nước tiểu tìm chất ma tuý ngày 01/10/2020 của Nhữ Quang C. (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng) giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện N và Công an huyện N.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nhữ Quang C phải nộp 200 nghìn đồng.

Án xử C khai sơ thẩm bị cáo Nhữ Quang C, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bùi Văn H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về