TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 239/2019/HS-ST NGÀY 27/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 12 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 240/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2019/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Đình T, sinh năm 1976 tại Hà Nội HKTT: số 17 ngõ 1, Cầu Đơ 4, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: số 112, tổ 4, phường K, quận H, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình X, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị H (đã chết); Có vợ là Nguyễn Thị C, sinh năm 1984 (đã ly hôn) và 02 con (con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2019); Theo danh chỉ bản số 565 lập ngày 28.10.2019 tại Công an quận H, Hà Nội. Tiền án tiền sự: Không.
* Nhân thân:
1. Bản án số 05/HSST ngày 17/01/1995 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Hà Tây (nay là quận H, thành phố Hà Nội) và bản án số 41/HSPT ngày 24/4/1995 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xử phạt 09 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản công dân” (đã được xóa án tích).
2. Bản án số 01/HSST ngày 19/01/2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) xử phạt 03 năm tù, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 11/01/2002 và đã được xóa án tích.
3. Quyết định số 4012/QĐ-UBND ngày 05/8/2009 của Chủ tịch UBND quận Hà Đông, về việc xử lý hành chính áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở chữa bệnh tại Trung tâm giáo dục Lao động xã hội số II, thời hạn 24 tháng và Quyết định số 9237/QĐ-UBND ngày 27/7/2011 của Chủ tịch UBND quận Hà Đông về việc quản lý sau cai nghiện ma túy thời hạn 24 tháng, kể từ ngày 14/8/2011. Chấp hành xong các quyết định, ngày 15/7/2013.
Bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 25/10/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 02 - Công an thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 25/10/2019, Nguyễn Đình T, sinh năm 1976 đi xe máy Honda Wave BKS: 30Y1-xxxx từ nhà ở tổ 4, phường K xuống khu vực H, huyện T, Hà Nội với mục đích tìm mua ma tuý để sử dụng cho bản thân. Khi tới khu vực đình K, thuộc xã H, huyện T, T gặp một người nam giới không quen biết trông giống người nghiện, nên lại gần hỏi “Có hàng không để cho em một trăm” (ý hỏi mua 100.000 đồng ma túy heroin), người nam giới hiểu ý và nói: “Có, đưa tiền đây”. T lấy trong người ra 100.000 đồng đưa cho người nam giới và được người này đưa lại cho 01 gói giấy kích thước (2 x 2) cm, bên trong chứa chất bột màu trắng. Mua xong, T cất gói ma túy trong túi quần trước bên trái đang mặc của mình rồi tiếp tục đi xe máy đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, khi Nguyễn Đình T đi đến đoạn ngã tư H - L thuộc phường C, quận H, thì bị tổ công tác Công an phường N, quận H phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tại túi quần trước bên trái của T đang mặc 01 gói giấy có đặc điểm như trên. Công an phường N đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Đình T, niêm phong vật chứng và tạm giữ chiếc xe máy nêu trên đưa về trụ sở điều tra làm rõ.
Tại bản kết luận giám định số 6821/KLGĐ-PC09 ngày 03/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,140 gam”.
Đối với đối tượng bán ma túy cho T: T khai không quen biết, ngoài lời khai của T không có tài liệu nào chứng minh, nên không có cơ sở điều tra xử lý.
Chiếc xe máy Honda Wave BKS: 30Y1-xxxx, số máy HC12E-164662, số khung RLHHC-12059Y088877 thu giữ của Nguyễn Đình T: Quá trình điều tra xác định xe đăng ký tên bà Nguyễn Thị C (mẹ của T, đã chết), hiện ông Nguyễn Đình X, sinh năm 1954 (bố của T), trú tại: số 17 ngõ 1, đường X, phường C, quận H quản lý sử dụng. Ngày 25/10/2019, T mượn xe của ông X để sử dụng sau đó sử dụng xe vào việc phạm tội nên ông X không được biết. Ngày 26/11/2019, Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại xe cho ông X là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 233/CT-VKS-HS ngày 28/11/2019 của Viện Kiểm Sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận tội như đã khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện Kiểm Sát tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn, đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình T không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 16 giờ ngày 25/10/2019, Nguyễn Đình T có hành vi tàng trữ 01 gói ma tuý loại Heroine, khối lượng 0,140 gam nhằm sử dụng trái phép thì bị kiểm tra bắt giữ tại khu vực ngã tư H - L thuộc phường C, quận H, thành phố Hà Nội. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đình T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3]. Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền kiểm soát và quản lý các chất ma tuý của nhà nước gây mất trật tự trị an, gây bất bình và tâm lý lo lắng cho những người dân trong khu vực. Ma tuý đang là mối hiểm họa của toàn xã hội. Nhà nước đã có nhiều chính sách cương quyết tuyên truyền vận động đến chế tài xử lý nghiêm khắc mọi hành vi liên quan đến ma tuý. Bị cáo đang ở độ tuổi lao động và cống hiến, nhưng với lối sống buông thả đã sớm đi vào con đường vi phạm pháp luật, không chịu lao động chân chính giúp ích cho bản thân gia đình và hậu quả là phải đứng trước vành móng ngựa ngày hôm nay chịu sự xử lý của pháp luật. Nên cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi và nhân thân của bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành người tốt.
[4]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần bị Tòa án xét xử, đã từng bị đưa vào cơ sở chữa bệnh và quản lý sau cai nghiện nhưng vẫn tiếp tục phạm tội là thể hiện sự coi thường pháp luật. Do vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.
[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đình T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa hôm nay và tại cơ quan điều tra bị cáo khai báo thành khẩn, thực sự ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[7]. Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục và cải tạo đối với bị cáo.
[8]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có thu nhập ổn định nên thấy cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9]. Về xử lý vật chứng: Chất bột màu trắng bên trong gói giấy màu trắng đã thu giữ là ma túy loại Heroine nên cần tịch thu tiêu hủy.
[10] Về án phí: Căn cứ 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Khoản 1 Mục I, Danh mục án phí lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ vào Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Khoản 1 Mục I, Danh mục án phí lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý
1. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2019.
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ ma túy đựng trong 01 phong bì được niêm phong dán kín, các mép dán có chữ ký của Nguyễn Đình T, giám định viên Nguyễn Hồng Quân, cán bộ Nguyễn Trung Phong.
(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/12/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận Hà Đông và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông).
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 239/2019/HS-ST ngày 27/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 239/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về