Bản án 81/2020/HS-ST ngày 02/07/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 81/2020/HS-ST NGÀY 02/07/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 30 tháng 6 năm 2020 và ngày 02 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên Vũ Văn T, tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; Sinh ngày 12 tháng 02 năm 1974 tại tỉnh Thái Nguyên; Nơi đăng ky HKTT: Xóm 7, xã Sơn Cẩm, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giao: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Vũ Văn Kh (đã chết) và bà Lê Thị Kh sinh năm 1928; Anh chị em ruột có 10 người, bị can là con thứ 9; Vợ thứ nhất: Dương Thị O (đã chết); Vợ thứ hai: Phạm Thị C , sinh năm 1963; Con có 02 con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2002. Tiền án, tiền sự: không Bị bắt, tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 15/12/2019, hiện đang tam giam tại Trại tạm giam Công an tinh Nghê An. Có mặt.

2. Họ và tên Lương Thị H, tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; Sinh ngày 09 tháng 3 năm 1991 tại huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ky HKTT : Bản Na Chạng, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch : Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giao: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Con ông Lương Văn Ph và bà Lương Thị Ph đều sinh năm 1968; Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ 2; Chồng, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt, tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 15/12/2019, hiện đang tam giam tại Trại tạm giam Công an tinh Nghê An. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn T: Luật sư Mai Sỹ L - Văn phòng luật sư C và Cộng sự - Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An. Có mặt.

+ Người bào chữa cho bị cáo Lương Thị H: Luật sư Trần Thị A - Công ty luật TNHH S - Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 14/12/2019, Vũ Văn T đang ở nhà tại xã Sơn Cẩm, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên thì có người đàn ông tên C, gọi điện đến đặt vấn đề thuê T đi lấy ma túy ở bản Vẽ, huyện Tương Dương và hứa trả công 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng). T đồng ý. Sau đó, T rủ Lương Thị H, là bạn gái cùng sống trong nhà với T cùng đi. H đồng ý. Đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 14/12/2019, T gọi điện cho anh Trần Đại Th, trú tại xã Sơn Cẩm, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên làm nghề lái xe taxi đến đón. Th điều khiển xe ô tô hiệu HUYNDAI I10, màu trắng, biển kiểm soát 20A-148.28 của hãng taxi Bình An đến đón T và H. T nói với Th đi vào bản Vẽ, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Th bật định vị dẫn đường và lái xe chở T và H ngồi phía sau.

Đến khoảng 03 giờ sáng ngày 15/12/2019, Th chở T và H đến khu vực bản Vẽ, huyện Tương Dương thì thấy một người đàn ông ngồi trên xe máy ở bên phải đường vẫy tay rồi sau đó đi xe máy phía trước dẫn đường. Đến một ngã ba, người đàn ông này dừng lại, T và H xuống xe taxi và ngồi lên xe máy người dẫn đường chở lên đồi và Th ngồi lại trong xe ô tô chờ. Khi người dẫn đường chở T và H đi đến khoảng giữa đồi thì dừng lại. T và H xuống xe, còn người dẫn đường đi xe máy xuống đồi. Sau đó, T đi bộ một mình lên đỉnh đồi, còn H đứng lại chờ. Đi được một đoạn khoảng hơn 10 mét, T gặp một người đàn ông. T nói: “Em đi lấy Hng cho anh C”. Người ngày đưa T một túi ni lông màu đen chứa ma túy và nói trong có 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng). T hiểu là một phần tiền công vận chuyển ma túy và hỏi lại người này: “Sao được từng này”. Người này nói “Về sẽ có người trả thêm”. T cầm túi ni lông màu đen xuống nơi H đang đứng chờ. T mở túi ni lông và dùng đèn pin điện thoại xem thì thấy bên trong có 05 (năm) bánh Heroine và tiền. T nói với H: “Chồng cầm ba bánh còn vợ cầm hai bánh”. H cầm hai bánh Heroine cất vào hai túi trong của áo khoác đang mặc. T lấy 02 bánh Heroine cất vào trong túi áo khoác đang mặc, 01 bánh Heroine dắt ở thắt lưng quần và cất tiền vào túi quần. T cho H biết, T đi vận chuyển ma túy cho C ở gần cầu Thanh Trì, H Nội, sẽ được trả 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng), tiền vận chuyển. H hỏi T: “Sao có từng này tiền hả chồng”. T trả lời H: “Ra ngoài kia có người trả tiếp”. Sau đó, T và H đi bộ xuống đồi rồi đi lại chỗ taxi dừng chờ. Lúc này Th đang ở trong xe. T và H lên xe nói Th chở về. Th lái xe chở T và H ngồi phía sau, khi đi về đến bản Xiềng Líp, xã Yên Hòa, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An vào khoảng 05 giờ, cùng ngày thì bị Tổ công tác Công an huyện Tương Dương yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong hai túi áo khoác Vũ Văn T mặc 02 khối hình chữ nhật chứa chất bột nén màu trắng (nghi Heroine) và trong thắt lưng quần của T có 01 khối hình chữ nhật chứa chất bột nén màu trắng (nghi Heroine); thu giữ trong hai túi trong của áo khoác mà Lương Thị H đang mặc 02 khối hình chữ nhật chứa chất bột nén màu trắng (nghi Heroine). Tổ công tác đã đưa Vũ Văn T và Lương Thị H về Công an huyện Tương Dương lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Ngày 15/12/2019 cơ quan CSĐT Công an huyện Tương Dương đã tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 05/KL-PC09(MT) ngày 17/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, Kết luận: Năm mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu từ M1, M2, M3, M4, M5) thu giữ của Vũ Văn T và Lương Thị H gửi tới giám định là ma túy (Heroine). Chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Văn T và Lương Thị H có tổng khối lượng là 1.683 gam (Một nghìn sáu trăm tám mươi ba gam).

Ngoài số ma túy bị thu giữ, cơ quan CSĐT Công an huyện Tương Dương còn thu giữ của Vũ Văn T số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng; một điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280, màu đen; 01 xe ô tô nhãn hiệu HUYNDAI I10, màu trắng, biển kiểm soát 20A-148.28.

Tại Bản cáo trạng số 81/CT/VKS-P1 ngày 20/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An quyết định truy tố các bị cáo Vũ Văn T và Lương Thị H phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Vũ Văn T tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn từ tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/12/2019 Xử phạt bị cáo Lương Thị H 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn từ tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/12/2019 Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy; tịch thu hóa giá sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động và tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 30.000.000 đồng.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T không tranh luận về phần tội danh mà bị cáo bị truy tố và xét xử, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo H đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, vai trò của bị cáo để xem xét mức án phù hợp.

Các bị cáo đồng ý với lời bào chữa của luật sư, không có ý kiến gì tranh luận và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các quyết định và hành vi tố tụng trong qúa trình điều tra, truy tố của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, luật sư bào chữa và bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai nhận trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy có đủ căn cứ xác định: Khoảng 05 giờ ngày 15/12/2019 xe ô tô hiệu HUYNDAI I10, biển kiểm soát 20A-148.28 do anh Trần Đại Th điều khiển chở Vũ Văn T và Lương Thị H, khi đi đến bản Xiềng Líp, xã Yên Hòa, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Tương Dương bắt quả tang, thu giữ trên người Vũ Văn T có 03 bánh Heroine, trên người Lương Thị H có 02 bánh Heroine. Tổng 05 bánh Heroine có tổng trọng lượng 1.683 gam (Một nghìn sáu trăm tám mươi ba gam), đây là số ma túy mà Vũ Văn T và Lương Thị H vận chuyển từ Bản Vẽ, huyện Tương Dương để đưa ra H Nội cho người đàn ông tên C với tiền công 60.000.000đ. Với hành vi trên, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố các bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét hành vi phạm tội của của các bị cáo Vũ Văn T và Lương Thị H thấy rằng: Các bị cáo đều là người nghiện ma túy và do hám lợi nên đã nhận lời vận chuyển ma túy cho người khác để lấy tiền công, các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây tác hại nghiêm trọng đến trật tự an ninh xã hội, nguyên nhân sâu xa làm phát sinh các tội phạm khác, các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện nhằm mục đích vụ lợi.

Trong vụ án này bị cáo T giữ vai trò chính, là người trực tiếp liên lạc với người đàn ông tên C để nhận vận chuyển ma túy. Đối với bị cáo H là người giữ vai trò giúp sức tích cực, khi biết bị cáo T vận chuyển ma túy để lấy tiền công bị cáo H đã cùng bị cáo T cất giữ ma túy và số lượng ma túy các bị cáo vận chuyển rất lớn. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc phù hợp với tính chất vai trò của từng bị cáo trong vụ án; cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung trong công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn ma túy hiện nay.

[4] Xét các tình tiết tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo tHnh khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo. Đối với bị cáo T trong quá trình sinh sống tại địa phương có tHnh tích trong công tác từ thiện được địa phương xác nhận, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hơn nữa, trong vụ án mặc dù số lượng ma túy rất lớn, nhưng các bị cáo là người vận chuyển cho người khác để lấy tiền công tiêu xài cá nhân. Do đó cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có thu nhập ổn định. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng: Ma túy là chất nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động liên quan đến tội phạm nên tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước. Số tiền 30.000.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[7] Trong vụ án này còn có người đàn ông tên C thuê T vận chuyển ma túy, người đàn ông đi xe máy dẫn đường, chở Vũ Văn T, Lương Thị H lên đồi và người giao ma túy cho T; do T không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể của những người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T và Lương Thị H phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Văn T tù chung thân.Thời hạn từ tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/12/2019.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Thị H 20 (Hai mươi) năm tù.Thời hạn từ tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/12/2019.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo Vũ Văn T và Lương Thị H.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 hộp cát tông dán kín bên trong có 05 bánh Heroine có tổng khối lượng 1.658 gam - Tịch thu hóa giá sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1280, màu đen đã qua sử dụng.

(Đặc điểm, tình trạng các vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17 tháng 4 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An).

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 30.000.000 đồng. (Đặc điểm vật chứng như Biên bản giao nhận tài sản ngày 18 tháng 3 năm 2020 giữa Kho bạc nhà nước tỉnh Nghệ An và Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Nghệ An).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vũ Văn T và bị cáo Lương Thị H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân cấp cao tại H Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HS-ST ngày 02/07/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về