Bản án 14/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí - tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2019/TLST- HS ngày 31 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 02 năm 2019 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Quang H, sinh ngày 27 tháng 6 năm 1999 tại U - Quảng Ninh. Nơi cư trú: tổ 1, khu T, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Chu Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 18-11-2018 và tạm giam ngày 24-11-2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1972. Nơi cư trú: tổ 1, khu T, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

2. Anh Hoàng Minh T, sinh năm 1984. Nơi cư trú: tổ 42, khu 1, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm: 1999. Nơi cư trú: tổ 1, khu L, phường Y, thành phố U, Quảng Ninh; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Công T, sinh năm: 1990. Nơi cư trú: xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt

- Người chứng kiến:

1. Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1970. Nơi cư trú: tổ 3, khu C, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

2. Chị Bùi Thị Kim T, sinh năm 1979. Nơi cư trú: tổ 2, khu 4, phường T, thành phốU, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánđược tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 17/11/2018, một người bạn của Nguyễn Quang H là anh Lê Cao Q (thường gọi là C L) nhà ở mặt đường Quốc lộ 10 gần Công ty xi măng L, thành phố Uông Bí, gọi điện thoại hẹn gặp H ở ngã ba Quốc lộ 10 thuộc phường Phương Đông, Uông Bí. Ngay sau khi Q gọi điện, H đã đến điểm hẹn và tại đây, Q đưa cho H 04 viên nén màu xanh (H biết đây là “thuốc lắc”) và 04 gói nilon màu đen có chữ “Rolls Royce” (Q nói là ma túy loại “nấm”). Ngoài ra, Q còn đưa cho H 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen, lắp sim số 0968.041.xxx và dặn ngày mai có ai gọi vào điện thoại này thìđưa ma túy cho người đó và không lấy tiền. H đồng ý, mang số ma túy về nhà cất giấu.

Khoảng 19 giờ ngày 18/11/2018, một người đàn ông gọi đến bằng số 0968.403.xxx hẹn lấy 04 viên “thuốc lắc” ở khu vực cổng phụ bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển. Ngay sau đó, H điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Hyundai Accent, màu xám, BKS 14A – 038.xx đi từ nhà đến địa điểm như đã hẹn với người đàn ông vừa gọi điện. Đến khoảng 20 giờ 15 phút cùng ngày, khi H đang dừng đỗ bên lề đường khu vực cổng phụ bệnh viện Việt Nam– Thụy Điển thuộc tổ 3, khu 5, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh thì tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Uông Bí phối hợp với Công an phường T đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại đây, thấy H có nhiều biểu hiện nghi vấn nên đã dừng xe tiến hành kiểm tra và ngay khi đó H đã hạ kính xe bên ghế phụ, ném ra khỏi xe 02 túi nilon, trong đó 01 túi nilon màu trắng, kích thước (7,5 × 4) cm, bên trong chứa 04 viên nén màu xanh; 01 túi nilon màu trắng, kích thước (13 × 8) cm, bên trong chứa 04 góinilon màu đen có chữ “Rolls Royce”. Tổ công tác đã thu giữ và niêm phong số vật chứng mà H đã ném ra khỏi xe, ngoài ra còn tạm giữ của H 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone, bên trong lắp sim số 0963.339.xxx; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280, bên trong lắp sim số 0968.014.xxx; số tiền 1.000.000 đồng; 06 túi nilon màu trắng kích thước (7,5 × 4) cm.

Tại Bản kết luận giám định số 710 ngày 21/11/2018 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật kí hiệu M1 thu giữ của Nguyễn Quang H gửi giám định là ma túy; Loại: MDMA; Tổng khối lượng: 1,34 gam (một phẩy ba bốn gam). Mẫu vật kí hiệu từ M2.1 đến M2.4 thu giữ của Nguyễn Quang H gửi giám định là ma túy; Loại: Ketamine, Nimetazepam; Tổng khối lượng: 2,673 gam (hai phẩy sáu bảy ba gam).

Theo lời khai của H, đối tượng Cao Văn Q (thường gọi C L) là người nhờ H vận chuyển ma túy. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã triệu tập đối tượng này nhưng đều vắng mặt. Qua kết quả xác thể hiện đối tượng không có mặt tại địa phương,hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ và xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 27 /CT – VKSUB ngày 31 - 01- 2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo Nguyễn Quang H về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và thừa nhận bị truy tố đúng người, đúng tội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Nguyễn Văn H có mặt tại phiên tòa trình bày đối với tài sản bị thu giữ có liên quan đến anh H đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu nên anh không có ý kiến gì thêm.

Người làm chứng anh Nguyễn Xuân T, anh Nguyễn Công T và người chứng kiến anh Phạm Văn Đ và chị Bùi Thị Kim T vắng mặt tại phiên tòa nhưng các lời khai thể hiện trong hồ sơ phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian, địa điểm, hành vi bị cáo thực hiện và vật chứng thu giữ (tại bút lục từ 67 – 77, 123).

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang H mức hình phạt từ 30 (ba mươi) tháng tù đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 47 – Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 – Bộ luật Hình sự. Tịch thu, tiêu hủy: 01 chiếc điện thoại Nokia1280 kèm sim số 0968.014.838, 06 túi ni lon màu trắng và 01 phong bì niêm phong số710/GĐMT bên trong đựng số ma túy được hoàn lại sau giám định.

Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không tranh luận với lời luận tội của Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội và xinđược giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về tội danh và hình phạt:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến và nội dung Biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản ảnh, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 20 giờ 15 phút ngày 18/11/2018, tại khu vực ngã ba cổng bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển thuộc tổ 3, khu 5, phường T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Nguyễn Quang H đang vận chuyển 1,34 gam ma túy loại MDMA và 2,673 gam ma túy loại Ketamine, Nimetazepam, thì bị Tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Uông Bí phối hợp với Công an phường T bắt quả tang, thu giữ số ma túy trên.

Bị cáo là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi do lỗi cố ý thuộc trường hợp nghiêm trọng; hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các chất ma túy thu giữ của bị cáo không được quy định trong cùng một điểm thuộc các khoản Điều 250 Bộ luật Hình sự và có khối lượng dưới mức tối thiểu đối với từng chất đó theo quy định tại khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự, trong đó các chất ma túy có khối lượng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự,nên áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 5 của Nghị định 19/2018/NĐ-CP của Chính phủ“ Quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự 2015”; Tính tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy thu giữ được của bị cáo là 40% (dưới 100%). Vì vậy, tổng khối lượng của các chất ma túy nàyxác định thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự.

Từ các phân tích trên, xác định hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về tội danh, hình phạt đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

Bản thân bị cáo nhận thức được việc vận chuyển ma túy cho các đối tượng khác là trái với quy định pháp luật nhưng vẫn bất chấp thực hiện, qua đó thể hiện sự coi thường phát luật của bị cáo. Vì vậy, cần phải có hình phạt phù hợp nhằm cải tạo, giáo dục riêng cũng như tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm chung.

 [3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Vì vậy, bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định nên quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng của vụ án không liên quan đến hành vi phạm tội đã được Cơ quan cảnh sát điều tra giao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp theo Quyết định xử lý vật chứng số 14 ngày 09 tháng 01 năm 2019.

- Đối với vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo xử lý như sau:

+ 01(một) chiếc điện thoại Nokia 1280 có giá trị nên tịch thu, phát mại để nộpngân sách Nhà nước;

+ 01(một) sim số 0968.014.xxx không có thông tin về người đăng ký sở hữu (sim rác) và 06 túi nilon không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

+ 01 (một) phong bì niêm phong số 710/GĐMT (bên trong đựng số ma túy hoàn lại sau giám định) là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

 [6] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

 [7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 250; Điểm s khoản 1 Điều 51 - Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang H phạm tội: “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang H 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 18/11/2018.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại Nokia 1280 .

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 sim số 0968.014.xxx và 06 túi nilon.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 710/GĐMT (bên trong là ma túy hoàn lại sau giám định). (Tình trạng và đặc điểm của vật chứng được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01 tháng 02 năm 2019 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Quang H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan – anh Nguyễn Văn H, báo cho biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Hoàng Minh T vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

554
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về