Bản án 81/2020/HNGĐ-ST ngày 11/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 81/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 11 tháng 8 năm 20 20 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 29/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXX-ST ngày 29 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị Đ - sinh năm 1978. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hà Văn K - sinh năm 1977. Vắng mặt.

Đều có địa chỉ: Bản T, xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 20/02/2020, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn chị Hà Thị Đ trình bày:

- Về tình cảm: Giữa chị và bị đơn anh Hà Văn K kết hôn với nhau vào ngày 12 tháng 11 năm 2002 tại UBND xã M, huyện Con C, tinh Nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc cho đến giữa năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên xích mích, cãi vã, xúc phạm, đánh đập nhau. Nguyên nhân do anh K không tu chí làm ăn, thường xuyên rượu chè về hành hạ đánh đập vợ con. Việc mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần, nhưng sau mỗi lần hòa giải tình cảm vẫn không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng, vì vậy mà từ cuối năm 2019 cho đến nay vợ chồng chị không còn sống chung với nhau nữa. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị ly hôn bị đơn anh Hà Văn K.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị có hai người con chung tên là Hà Đức D, sinh ngày 19/3/1999 và Hà Thị Phương T, sinh ngày 15/5/2004. Hiện nay cháu D đã trưởng thành, có khả năng lao động. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con Hà Thị Phương T và không yêu cầu anh Kiểm cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị và anh K thỏa thuận tự chia không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng chị không vay nợ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng như không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Hà Văn K trình bày: Vợ chồng anh kết hôn với nhau vào ngày 12/11/2002 tại UBND xã M, huyện C, tỉnh nghệ An. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc cho đến giữa năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh thường xuyên rựu chè bê tha, ghen tuông vô cớ nhưng chỉ là khi anh uống rượu, còn khi bình thường anh vẫn thương yêu vợ con. Việc mâu thuẫn của vợ chồng anh đã được hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần, nhưng sau mỗi lần hòa giải tình cảm được cải thiện. Anh thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, vợ chồng vẫn có thể khắc phục sửa chữa về đoàn tụ với nhau xây dựng hạnh phúc gia đình nên chị Đ yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn anh không đồng ý.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 11/6/2020 cháu Hà Thị Phương T có nguyện vọng được ở với mẹ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hôi đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình: chấp nhận đơn ly hôn của chị Hà Thị Đ. Buộc chị Hà Thị Đ và anh Hà Văn K chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; về con: giao con chung Hà Thị Phương T cho chị Hà Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Thảo trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Hà Văn K; về tài sản chung: chị Hà Thị Đ và anh Hà Văn K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; Buộc chị Hà Thị Đ phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân gia đình về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn: bị đơn anh Hà Văn K hiện cư trú tại bản T, xã M, huyện C, tỉnh nghệ An nên Tòa án nhân dân huyện C thụ lý giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Hà Văn K đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về phiên hoà giải, các Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Kiểm theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con chưa thành niên khi ly hôn nên theo quy định, Tòa án xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp tại UBND xã M, huyện C là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét chị Hà Thị Đ và anh Hà Văn K đăng ký kết hôn vào ngày 12 tháng 11 năm 2002 tại UBND xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy hôn nhân giữ chị Đường và anh Kiểm là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị Đ nguyên nhân mâu thuẫn do quan điểm, tính cách không phù hợp, anh K không tu chí làm ăn, thường xuyên rượu chè bê tha về hành hạ đánh đập vợ con. Anh K cho rằng, nguyên nhân do anh rượu chè bê tha ghen tuông vô cớ nhưng là chỉ khi anh uống rượu, còn khi bình thường anh vẫn thương yêu vợ con. Mặc dù các đương sự không thống nhất với nhau về nguyên nhân mâu thuẫn nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy giữa vợ chồng chị Đ và anh K thường xảy ra cãi vã, xô xát và đánh đập nhau nên chị Đ về sống cùng bố mẹ đẻ, anh K sống tại nhà riêng của vợ chồng anh K. Như vậy, chị Đ và anh K đã vi phạm quy định về tình nghĩa vợ chồng, không sống chung với nhau mà không có lý do chính đáng.

Xét thấy, giữa chị Đ và anh K mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì thế cần cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, xử cho chị Hà Thị Đ được ly hôn với anh Hà Văn K.

Về con chung: Chị Đ và anh K có hai người con chung tên là Hà Đức D, sinh ngày 19/3/1999 và Hà Thị Phương T, sinh ngày 15/5/2004. Cháu D hiện nay đã đủ tuổi trưởng thành, có khả năng lao động. Còn cháu T đang sống với chị Đ, quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa chị Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy khi cha, mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cũng phải nhằm đảm bảo cho con sự phát triển tốt nhất cả về vật chất và tinh thần. Như vậy nguyện vọng của chị Đ là chính đáng, thể hiện tinh thần và trách nhiệm của người mẹ dành cho con, phù hợp với nguyện vọng của con. Mặt khác qua các minh hiện nay anh K không có mặt ở địa phương, việc giao con cho anh K nuôi dưỡng là không đảm bảo điều kiện về mọi mặt cho con. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận giao con chung là Hà Thị Phương T cho chị Hà Thị Đ trược tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu T trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Hà Văn K.

Về tài sản chung: Do các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Hà Thị Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 207, 227, 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Hà Thị Đ được ly hôn anh Hà Văn K.

Về con chung: Giao con chung Hà Thị Phương T, sinh ngày 15/5/2004 cho chị Hà Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến cháu T tròn 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Hà Văn K.

Anh K có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Nếu anh K lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

Chị Đ cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về án phí: Áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Hà Thị Đ phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Đ đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0001530 ngày 02 tháng 3 năm 2020.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HNGĐ-ST ngày 11/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:81/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về