TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 81/2019/HS-ST NGÀY 22/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - tỉnh Khánh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 99/2019/ HSST ngày 11 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Phạm Hoài V - sinh năm: 1997 tại Khánh Hòa, Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nơi ĐKHKTT: Tổ 4 - thôn N - phường N - Tp. N, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở: 09 đường H, phường P, Tp. N, tỉnh Khánh Hòa; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Phạm Văn H1 và bà: Văn Thị H2; Có vợ và 01 con (sinh năm 2018); Tiền sự: không.
Tiền án: 02
- Ngày 09/7/2009 bị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa tuyên phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/10/2009.
- Ngày 21/02/2011 bị Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang xử phạt 7 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 31/8/2016 chấp hành xong hình phạt tù.
Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 18/12/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
2. Lê Mạnh Đ - sinh ngày: 11/7/1998 tại Khánh Hòa; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nơi ĐKHKTT: Tổ 3 - thôn V - phường N - Tp. N, tỉnh Khánh Hòa; Trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Lê Văn N và bà: Lý Thị Kim A; Tiền sự: không.
Tiền án: Ngày 30/6/2016 bị TAND huyện Diên Khánh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản. Ngày 09/3/2018 chấp hành xong hình phạt tù.
Nhân thân: Ngày 15/11/2018, bị TAND TX Ninh Hòa xử phạt 1 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chưa thi hành án.
Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 18/12/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Mai Q - sinh năm 1998. Nơi cư trú: thôn L, xã D1, huyện D, Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Ông Thái Vũ H3 - sinh năm 1995. Nơi cư trú: Tổ 11, thôn P, xã V, Tp. N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Ông Lê Hiền Đ2 - sinh năm 1980. Nơi cư trú: Tổ 12 khóm T, phường V2, Thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 26/11/2018 trong khi tuần tra tại khu vực trước nhà số 01 đường P, phường P1, thành phố N, tố công tác của đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Nha Trang phát hiện và bắt quả tang Phạm Hoài V đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 79N1-475.88 chở Lê Mạnh Đ có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu kiểm tra giấy tờ tùy thân. Tại đây Đ lấy trong người ra 04 đoạn ống hút nhựa hàn kín màu trắng chứa chất bột nén màu trắng (ký hiệu A) và 02 đoạn ống hút nhựa hàn kín màu đỏ chứa chất bột nén màu trắng (ký hiệu B) giao cho tổ công tác và thu giữ dưới đất nơi V đang đứng 01 bịch nilong hàn kín màu trắng chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu C)
Quá trình điều tra, Lê Mạnh Đ và Phạm Hoài V khai nhận: khoảng 20 giờ ngày 26/11/2018, Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 79N1-475.88 đến nhà V tại số 09 đường H, phường P, thành phố N. Đ rủ V đi mua ma túy sử dụng, V đồng ý. V điều khiển xe mô tô trên chở Đ đến khu vực Lầu 7, phường V, thành phố N. Đ xuống xe gặp một nam thanh niên chưa rõ nhân thân lai lịch mua 06 tép ma túy với giá 500.000đ. V điều khiển xe lên phía trên gặp một nam thanh niên khác chưa rõ lai lịch hỏi mua 01 gói ma túy với giá 300.000đ. Sau khi có ma túy cả hai đi tìm nơi sử dụng, khi đến trước nhà số 01 đường đường P, phường P1, thành phố N, thì bị tổ công tác điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Nha Trang phát hiện và bắt giữ. Đ lấy ma túy từ trong người ra giao nộp còn V sợ quá đã quăng bịch ma túy của mình xuống đất nơi V đang đứng. Sau đó tổ công tác bắt quả tang và mời về trụ sở giải quyết.
Bản kết luận giám định số 32/GĐTP/2019 ngày 07/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận:
Chất bột trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,1908 gam (không phẩy một chín không tám gam), là (loại) Heroin.
Chất bột trong mẫu ký hiệu B gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,1098 gam (không phẩy một không chín tám gam), là (loại) Heroin.
Chất tinh thể trong mẫu ký hiệu C gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,2971 gam (không phẩy hai chín bảy một gam), là (loại) Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKSNT ngày 08/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo Phạm Hoài V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; truy tố bị cáo Lê Mạnh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang đã giữ nguyên kết luận truy tố đối với các bị cáo; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử như sau:
- Áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, tuyên phạt bị cáo Phạm Hoài V từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù.
- Áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Phạm Hoài V từ 1 năm 6 tháng đến 1 năm 9 tháng tù, tổng hợp hình phạt 1 năm 06 tháng tù của Bản án số 76/2018/HSST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa.
Các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội có diễn biến như nội dung cáo trạng đã truy tố và cho rằng bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng nhưng xét thấy việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ theo các Điều 292 và 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo theo cáo trạng truy tố thì thấy: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội có diễn biến như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ đế xác định: Vào khoảng 20 giờ 45 ngày 26/11/2018, tại khu vực Nhà số 1 đường P, phường P1, thành phố N bị cáo Lê Mạnh Đ đang tàng trữ trái phép 0,3006 heroin; Phạm Hoài V đang tàng trữ trái phép 0,2971 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện và bắt quả tang.
[3] Quá trình điều tra đã xác định, khoảng 20 giờ 00 ngày 26/11/2018, Đ đã lấy xe máy đến rủ V để đi mua ma túy về sử dụng. Sau đó cả hai đi đến khu vực Lầu 7 - phường V để mua số ma túy trên của hai thanh niên chưa xác định được lai lịch. Trong đó, Đ mua 0,3006 heroin, và V mua 0,2971 gam Methamphetamine. Như vậy, các bị cáo cùng biết rõ mục đích và hành vi mua ma túy của nhau nên phải chịu trách nhiệm chung với tổng số ma túy mà cả hai cùng mua. Do vậy, định lượng ma túy, hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
[4] Về nhân thân của các bị cáo thì thấy như sau:
[4.1] Bị cáo Phạm Hoài V: đã từng 2 lần bị kết án, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự. Do vậy, hành vi của bị cáo Phạm Hoài V đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.
[4.2] Bị cáo Lê Mạnh Đ: đã từng 02 lần bị kết án. Đối với lần kết án của Bản án số 46/2016/HSST ngày 30/6/2016 thì bị cáo chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, bị cáo bị kết án về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự 1999 là thuộc loại tội rất nghiêm trọng do cố ý nên không được xóa án tích theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 107 của Bộ luật hình sự. Đối với lần kết án của Bản án số 76/2018/HSST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa thì khi bản án này chưa có hiệu lực bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên không tính tiền án cho bị cáo. Do vậy, hành vi của bị cáo Lê Mạnh Đ cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang đối với bị cáo theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
[5] Hành vi của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội vì đã tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần của người sử dụng, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, các bị cáo đều có nhân thân xấu, đã từng nhiều lần bị kết án nhưng không lấy đó làm bài học nên cần xử lý nghiêm khắc. Đối với bị cáo Lê Mạnh Đ cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Nhưng xét các bị cáo cũng thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải nên có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 khi lượng hình.
[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy nên cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung.
[7] Đối với các đối tượng đã bán ma túy hiện chưa xác định được lai lịch, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Nha Trang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
[8] Về trách nhiệm dân sự: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên nếu có yêu cầu về dân sự sẽ được xem xét, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đơn khởi kiện.
[9] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Phạm Hoài V;
- Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 53, Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Lê Mạnh Đ;
- Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Hoài V 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn phạt tù tính từ ngày 18/12/2018.
Xử phạt: Bị cáo Lê Mạnh Đ 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt 1 năm 06 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2018/HSST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 3 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngay 18/12/2018.
Về trách nhiệm dân sự: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên nếu có yêu cầu về dân sự sẽ được xem xét, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đơn khởi kiện
Về án phí: các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án 81/2019/HS-ST ngày 22/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 81/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về