Bản án 81/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 81/2019/HS-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 đối với:

Bị cáo Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 10/01/1996 tại xã H, huyện P, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện P, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Tiến Đ1, sinh năm 1975 và bà: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2015/HSST ngày 30/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (giá trị tài sản chiếm đoạt 3.040.000 đồng), ngày 01/10/2015 chấp hành xong hình phạt tù. Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (giá trị tài sản chiếm đoạt 7.000.000 đồng), ngày 03/7/2018 chấp hành xong hình phạt tù; bị bắt tạm giam từ ngày 02/8/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (có mặt).

- Bị hại: Chị Phạm Thị Th1, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện P, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đào Trọng H1, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn T1, xã H2, huyện P, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 29/7/2019, Nguyễn Tiến Đ đi bộ từ quán ăn nhà Đ đến nhà chị Phạm Thị Th1 ở cùng thôn mục đích trộm cắp tài sản. Quan sát thấy nhà chị Th1có hàng rào sắt, cổng khóa, xung quanh vắng người, Đ trèo qua khe hở giữa cổng và hàng rào sắt rồi trèo qua cửa tôn lán để xe vào trong nhà. Thấy chị Th1đang ngủ ở phòng giáp cầu thang, trên đầu giường có để chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu sam sung J8, màu đen liền lấy bỏ vào túi quần bên phải rồi trèo cổng ra ngoài theo lối đã vào. Về đến quán ăn nhà Đ, lấy điện thoại ra xem thì thấy có cài đặt khóa màn hình nên không mở được; Đ đã tháo sim khỏi điện thoại. Khoảng 07 giờ ngày 30/7/2019, Đ mang theo chiếc điện thoại nêu trên đến cửa hàng sửa chữa điện thoại H3 của anh Đào Trọng H1 ở thôn T1, xã H2 nói với anh H1 là điện thoại của Đ quên mật khẩu muốn chạy lại phần mềm, sau đó hỏi giá và bán chiếc điện thoại trên cho anh H1 với giá 1.500.000 đồng. Số tiền này Đ chi tiêu cá nhân hết.

Biên bản Kết luận định giá tài sản ngày 31/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quỳnh Phụ kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu sam sung J8, màu đen, số seri R58K86BY6A, IMEI1 359051097083166, IMEI2 359052097083164 trị giá 3.000.000đ (Ba triệu đồng)

Tại phiên tòa bị cáo khai, do muốn có tiền để chi tiêu cá nhân nên khoảng 22 giờ 30 phút ngày 29/7/2019, bị cáo đã trèo cổng vào trong nhà chị Phạm Thị Th1 ở cùng thôn T, xã H, huyện P lấy 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu sam sung J8, màu đen. Sáng hôm sau bị cáo mang bán cho cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại H3 lấy 1.500.000 đồng chi tiêu cá nhân hết. Bị cáo nhất trí kết luận của Hội đồng định giá tài sản định giá chiếc điện thoại bị cáo đã lấy của chị Th1trị giá 3.000.000 đồng.

Lời khai của bị hại là chị Phạm Thị Th1 có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 21 giờ ngày 29/7/2019, gia đình chị đi ngủ, chị để điện thoại di động nhãn hiệu sam sung J8, màu đen ở đầu giường, sáng hôm sau dậy thấy mất điện thoại, chị đã trình báo Công an huyện Quỳnh Phụ. Chị đã nhận lại chiếc điện thoại từ cơ quan Điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, chị không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự và đề nghị xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Lời khai của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Đào Trọng H1 có trong hồ sơ vụ án có nội dung: Anh làm nghề mua bán, sửa chữa điện thoại. Sáng ngày 30/7/2019 có một thanh niên đến hỏi để sửa sau đó bán cho anh 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung J8 màu đen với giá 1.500.000 đồng. Khi mua anh nghĩ là khách hàng bình thường, sau khi cơ quan Điều tra thông báo anh mới biết đây là tài sản thanh niên đã trộm cắp mà có và người này tên là Nguyễn Tiến Đ; anh đã tự nguyện nộp điện thoại trên cho cơ quan Điều tra; đối với số tiền 1.500.000 đồng anh đã trả cho Nguyễn Tiến Đ, do hiện tại Đ đang bị giam, không có điều kiện để trả nên anh cho Nguyễn Tiến Đ, không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm hoàn trả.

Bản cáo trạng số 84/CT-VKSQP ngày 26/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Tiến Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h; s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/8/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết; buộc bị cáo nộp lại số tiền 1.500.000 đồng thu được từ bán điện thoại để tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước; về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức đã vi phạm pháp luật, rất hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận đêm ngày 29/7/2019, bị cáo đã trèo cổng vào nhà chị Phạm Thị Th1 lấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu sam sung J8; bị cáo nhất trí với kết luận của Hội đồng định giá tài sản về trị giá điện thoại bị cáo đã lấy của chị Th1. Bị cáo đã đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và được chứng minh bằng lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, sơ đồ hiện trường, biên bản tạm giữ đồ vật, biên bản định giá tài sản cùng toàn bộ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 29/7/2019, Nguyễn Tiến Đ đã có hành vi trèo cổng vào nhà ở của chị Phạm Thị Th1 ở thôn T, xã H, huyện P, tỉnh Thái Bình lấy đi 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Sam sung J8 trị giá 3.000.000đ (Ba triệu đồng) của chị Th1. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, do đó hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng … thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

g) Tái phạm nguy hiểm.

Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố và kết luận bị cáo Nguyễn Tiến Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản2 Điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Lợi dụng đêm tối, bị cáo đã trèo cổng vào nhà chị Phạm Thị Th1 để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Mặc dù giá trị tài sản bị cáo trộm cắp không lớn, nhưng bị cáo đã hai lần bị kết án về cùng về tội trộm cắp tài sản, đã được pháp luật cải tạo, giáo dục, nhưng không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xét thấy tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị 3.000.000 đồng, quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đều thành thật khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” và “thành khẩn khai báo” quy định tại các điểm h và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Qua phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội với mức án tương xứng hành vi bị cáo đã gây ra để pháp luật cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Xét thấy, điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo trộm cắp của chị Phạm Thị Th1 01 điện thoại di động, Cơ quan Điều tra đã thu hồi và trả lại cho chị Th1, chị Th1đã nhận lại nguyên vẹn, không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự; đối với khoản tiền 1.500.000 đồng anh Đào Trọng H1 trả cho bị cáo khi mua điện thoại di động, anh H1 cho bị cáo và không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm hoàn trả, do đó về trách nhiệm dân sự trong vụ án này không đặt ra giải quyết.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h; s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo Nguyễn Tiến Đ 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/8/2019.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Tiến Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:81/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về