Bản án 810/2019/HNGĐ-ST ngày 11/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 810/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 11 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 334/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2612/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hoàng Y, sinh năm 1975

Địa chỉ: 65/4 đường T, phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Đinh Văn D, sinh năm 1975

Địa chỉ: Longfield ST, Cabramatta NSW 2166, Australia.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 27/6/2018 và bản tự khai, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoàng Y trình bày:

Bà và ông Đinh Văn D quen biết nhau qua mạng internet vào năm 2017, sau đó hai bên có tổ chức lễ cưới và làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 37, ngày 19/3/2018 của UBND Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn, ông Đinh Văn D chung sống với vợ tại Việt Nam khoảng 06 tuần. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn sống chung này, giữa hai bên bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do bà không tin tưởng chồng về tình cảm, ông D có biểu hiện không chung thủy, thường xuyên nhắn tin liên lạc, tán tỉnh những người phụ nữ khác, khi bà không đồng ý việc làm này thì ông D có những lời lẽ xúc phạm, không tôn trọng vợ. Do đó, vợ chồng thường hay cãi vã và có xảy ra xô xát nhau. Từ khi ông D về lại nước Úc, mặc dù không sống chung nhưng mâu thuẫn vợ chồng càng nặng nề hơn, ông D nhắn tin đe dọa và có những hành động bạo hành tinh thần bà. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bà yêu cầu ly hôn ông Đinh Văn D.

Về con chung: không có

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tại Bản tự khai ngày 18/6/2019, bị đơn ông Đinh Văn D trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Hoàng Y quen nhau vào tháng 01/2017 đến ngày 12/02/2018 ông về Việt Nam. Hai bên làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 37, ngày 19/3/2018. Sau khi kết hôn, hai bên chung sống đến ngày 26/3/2018 tì ông trở về nước Úc. Khi sống xa nhau, vợ chồng thường xuyên liên lạc với nhau bằng điện thoại và gọi điện video. Trong thời gian sống xa nhau ông phát hiện vợ ông không chung thủy, có nhiều mối quan hệ không trong sáng với những người đàn ông khác. Sau thời gian cho vợ thay đổi nhưng vợ vẫn không chuyển biến. Ông xác định không còn tình cảm với bà Y. Nay bà Y yêu cầu ly hôn, ông đồng ý.

Về con chung: xác nhận không có.

Về tài sản chung và nợ chung: xác nhận không có.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thủ tục ủy thác tư pháp, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Hoàng Y được ly hôn ông Đinh Văn D. Con chung: không có. Tài sản chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoàng Y đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Đinh Văn D cư trú tại nước Úc; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoàng Y, bị đơn ông Đinh Văn D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Nguyễn Thị Hoàng Y và ông Đinh Văn D tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2018, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 37 ngày 19/3/2018 của Ủy ban nhân dân Quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà Y thì sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với nhau tại Việt Nam được khoảng 06 tuần thì ông D quay trở về nước Úc. Trong thời kỳ hôn nhân giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm nhau do khác biệt về suy nghĩ và cách sống, không có sự tin tưởng nhau về tình cảm. Sau khi ông D về Úc, mặc dù vợ chồng không chung sống nhưng mâu thuẫn vẫn tiếp tục phát sinh và ngày càng trầm trọng hơn. Bà Y xác định không còn tình cảm với chồng, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân được nữa và có yêu cầu ly hôn. Lời khai ông Đinh Văn D cũng xác nhận giữa vợ chồng không có sự tin tưởng nhau, thường xuyên cãi vã, không có hạnh phúc, ông không còn tình cảm với vợ nên đồng ý ly hôn.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu được ly hôn của bà Y.

Về con chung: Đôi bên thống nhất khai không có.

Về tài sản chung và nợ chung: bà Nguyễn Thị Hoàng Y, ông Đinh Văn D đều khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.

các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 37; điểm a, khoản 2 Điều 38; Điều 464; khoản 1 Điều 469, Điều 478, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 123, Điều 124, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử D án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hoàng Y được ly hôn ông Đinh Văn D.

Giấy chứng nhận kết hôn số 37 ngày 19/3/2018 của Ủy ban nhân dân Quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Hoàng Y và ông Đinh Văn D khai không có.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Nguyễn Thị Hoàng Y phải chịu, nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà Y đã nộp tại Biên lai thu số AA/2017/0049062 ngày 09/7/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà Y đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoàng Y và bị đơn ông Đinh Văn D; bà Nguyễn Thị Hoàng Y được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Đinh Văn D được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 810/2019/HNGĐ-ST ngày 11/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:810/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về