Bản án 80/2021/HNGĐ-ST ngày 12/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 80/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 12 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 244/2021/TLST- HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2021 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/6/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Mộng K, sinh năm 1993; thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Số D khu phố E, phường F, thành phố F, tỉnh Bình Dương; Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đinh Văn L, sinh năm 1994; thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Số D khu phố E, phường F, thành phố F, tỉnh Bình Dương; Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/5/2021 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Võ Thị Mộng K trình bày:

Về quan hệ hôn N: Chị Võ Thị Mộng K và anh Đinh Văn L tự nguyện chung sống vào năm 2015 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 117, quyển số 01/2015, ngày 19/11/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại F, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2020 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường gây gỗ và cãi vả nhau, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Cuộc sống hôn nhân ngày càng căng thẳng, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Mặc dù anh, chị đã cố gắng hòa giải và nỗ lực hàn gắn tình cảm nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hiện nay anh, chị không còn chung sống với nhau từ cuối năm 2020. Chị K xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh L.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Đinh Võ Trọng N, sinh ngày 20/11/2017. Hiện nay cháu N đang sống với chị K. Sau ly hôn, chị K yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Theo biên bản tự khai ngày 02/7/2021 bị đơn anh Đinh Văn L trình bày: Thống nhất với lời khai của chị K về thời gian, điều kiện kết hôn và nơi sinh sống của vợ chồng sau khi kết hôn. Quá trình chung sống hai vợ chồng vẫn sống hạnh phúc, không có mâu thuẫn. Có một hai lần anh L đi nhậu không chăm lo cho gia đình, khi nhậu say sỉn về anh L có những lời lẽ xúc phạm nhân phẩm của chị K. Hiện anh, chị không còn sống chung với nhau từ cuối năm 2020. Do anh L và chị K làm hai công ty khác nhau nên anh L không có thời gian gặp trực tiếp để hàn gắn tình cảm vợ chồng mà chỉ nhắn tin xin chị K tha thứ và cho cơ hội về đoàn tụ nhưng chị K không đồng ý. Nay anh L vẫn còn tình cảm với chị K nên không đồng ý ly với yêu cầu khởi kiện của chị K. Hiện nay anh làm công N với mức thu nhập 8.500.000 đồng/tháng.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Đinh Võ Trọng N, sinh ngày 20/11/2017. Do không đồng ý ly hôn nên anh K không yêu cầu giải quyết về con chung. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị K về quan hệ hôn nhân thì anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đinh Võ Trọng N và không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ngày 04/6/2021, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa chị Võ Thị Mộng K và anh Đinh Văn L tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường F và được cung cấp như sau: Trước khi nộp đơn ly hôn tại Tòa án chị Võ Thị Mộng K không có đơn yêu cầu Hội Liên hiệp phụ nữ phường F tiến hành hòa giải. Đồng thời, Hội Liên hiệp phụ nữ phường F cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh, chị, do đó không biết rõ giữa hai anh, chị có mâu thuẫn như thế nào, vấn đề con chung, công việc và thu nhập Hội Liên hiệp phụ nữ phường F cũng không biết nên không cung cấp được thông tin cho Tòa án.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật, quan điểm giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn chị Võ Thị Mộng K và bị đơn anh Đinh Văn L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Mộng K và anh Đinh Văn L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban N dân xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 117, quyển số 01/2015, ngày 19/11/2015 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Chị K xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung nên dẫn đến thường xuyên gây gỗ và cãi vả nhau. Về phía bị đơn anh L xác định quá trình chung sống hai vợ chồng hạnh phúc, không phát sinh mâu thuẫn, tuy nhiên có một vài lần trong lúc say xỉn anh L đã xúc phạm nhân phẩm của chị K và không chăm lo cho gia đình nhưng anh vẫn còn tình cảm với chị K nên không đồng ý ly hôn.

Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ. Qúa trình chung sống chị K và anh L có phát sinh mâu thuẫn, điều này đã được thể hiện trong lời khai của anh, chị. Bản thân anh L cũng thừa nhận trong những lúc say sỉn anh L đã có lời lẽ xúc phạm N phẩm của chị K và không chăm lo cho gia đình. Hiện tại chị K và anh L đã ly thân từ cuối năm 2020 cho đến nay, giữa vợ chồng anh, chị không còn sự quan tâm, chia sẻ, tôn trọng nhau. Đồng thời, kể từ khi hòa giải cho đến ngày xét xử anh L không đưa ra được phương án nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nhận thấy tình trạng hôn N giữa chị K và anh L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn N không đạt được. Do đó, chị K yêu cầu được ly hôn với anh L là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị Võ Thị Mộng K và anh Đinh Văn L có 01 con chung tên Đinh Võ Trọng N, sinh ngày 20/11/2017. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con…trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con…”. Xét, hiện nay cháu N còn nhỏ tuổi, đồng thời, từ khi cháu N được sinh ra cho đến nay chị K là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Để tránh làm xáo trộn môi trường sống, ảnh hưởng đến tâm sinh lý của cháu nên Hội đồng xét thấy cần giao cháu N cho chị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị K yêu cầu anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Xét, nghĩa vụ nuôi con là của cả cha lẫn mẹ, khi ly hôn, người không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi xem xét thu nhập, tui của con chung và hoàn cảnh sống của trẻ em trong giai đoạn hiện nay, chị K yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung với số tiền 2.000.000 đồng/tháng là phù hợp với quy định tại Điều 58, 82, 116 Luật Hôn nhân và gia đình. Thời hạn cấp dưỡng được tính từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

[2.4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[3] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về quan điểm giải quyết vụ án.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Võ Thị Mộng K phải chịu án phí ly hôn, anh Đinh Văn L phải chịu án phí cấp dưỡng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a, khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228; Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 và 116 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a, khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Võ Thị Mộng K về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Đinh Văn L.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Mộng K được ly hôn với anh Đinh Văn L [Theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 117, quyển số 01/2015, do Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 19/11/2015].

1.2 Về con chung: Anh Đinh Văn L giao con chung tên Đinh Võ Trọng N, sinh ngày 20/11/2017 cho chị Võ Thị Mộng K trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau ly hôn, chị Võ Thị Mộng K và anh Đinh Văn L có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền được cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

1.3 Về cấp dưỡng: Buộc anh Đinh Văn L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 (hai triệu) đồng, thời hạn cấp dưỡng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày người được thi hành án có yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải trả khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

1.4 Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

2. Về án phí: Chị Võ Thị Mộng K phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0049669 ngày 03 tháng 6 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố F, tỉnh Bình Dương. Anh Đinh Văn L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng.

3. Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2021/HNGĐ-ST ngày 12/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:80/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về