Bản án 574/2020/HNGĐ ngày 30/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN- THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 574/2020/HNGĐ NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 292/2020/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2020/QĐ -ST ngày 28/8/2020, theo quyết định hoãn phiên tòa số: 61/QĐ ngày 14/9/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Kiều H, sinh năm 1984, HKTT và nơi ở: NO 10a, khu Đô thị Sài Đồng, phường Việt Hưng, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp: Trưởng phòng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp- Công ty cổ phần Tập đoàn BRG. (Có mặt)

2.Bị đơn: Anh Đào Duy T, sinh năm: 1980, HKTT và nơi ở: : NO 10a, khu Đô thị Sài Đồng, phường Việt Hưng, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội Nghề nghiệp: Nhân viên kinh doanh xe ô tô – Công ty cổ phần truyền thông và dữ liệ thanh toán An Du ( Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện ngày 08/6/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Trần Thị Kiều H trình bày:

Chị và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện có tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 04/02/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Phi Mô, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, sau khi kết hôn với nhau anh chị cùng chung sống, hạnh phúc một thời gian, đến năm 2010 giữa anh và chị có nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống chung và dần phát sinh những mẫu thuẫn do tính cách, quan điểm sống khác biệt, mặc dù hai bên gia đình cũng như bản thân anh và chị cố gắng hàn gắn nhưng ngày một trầm trọng , có nhiều lúc xảy ra tình trạng bạo hành thể xác với chị, nhiều lần anh T đã đánh đập chị, chị đã phải báo cho chính quyền tổ dân phố can thiệp, đến đầu năm 2020 chị và anh T không thể nói chuyện với nhau, về tình cảm chấm dứt và thực sự ly thân, chị sợ ảnh hưởng đến tâm lý của con chung, theo chị mục đích hôn nhân là không đạt được, chị có nguyện vọng chấm dứt cuộc sống chung với anh T, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Đào Duy T.

- Về con chung: Anh T và chị có một con chung là: Đào Duy Đăng K, sinh ngày 02/12/2009, hiện đang ở với chị, chị là người đang chăm sóc, nuôi dạy con chung từ khi cháu còn bé, chị lại không có khả năng sinh con nữa vì vậy nguyện vọng muốn được nuôi con chung cho đến khi con chung trưởng thành. Chị yêu cầu anh Đào Duy T đóng góp tiền nuôi con chung một tháng là 05 triệu đồng. Quá trình làm việc sau này chị H không có yêu cầu và xin giải quyết trong vụ án khác.

- Về tài sản, nhà đất, công nợ: Chị không có yêu cầu Tòa án giải quyết * Bị đơn là anh Đào Duy T trình bày: Anh Đào Duy T đến Tòa án nhận thông báo thụ lý vụ án nhưng không làm bản tự khai về các vấn đề tình cảm, mâu thuẫn giữa hai bên trong quá trình chung sống, không trình bày về các vấn đề tài sản chung, công nợ, do đó anh Đào Duy T không thể hiện ý kiến gì.

Tại phiên toà hôm nay anh Đào Duy T vẫn tiếp tục vắng mặt không có lý do, còn chị Trần Thị Kiều H có ý kiến vẫn giữ nguyên các quan điểm đã trình bày trước đây tại tòa án, không thay đổi bổ sung gì.

Đại diện VKS tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và nội dung giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Toà án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền, thụ lý và trình tự đưa vụ án ra xét xử.Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn Đào Duy T vẫn vắng mặt, Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự về việc không tống đạt được, anh T vắng mặt tại phiên tòa lần T hai không có lý do. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 227; Điểm b, Khoản 1, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt anh Đào Duy T là đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Anh chị kết hôn là tự nguyện. Mâu thuẫn phát sinh là do bất đồng quan điểm sống, cách sống, vợ chồng không hòa hợp, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài, mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc không đạt được, vợ chồng đã từng tìm kiếm biện pháp hòa giải nhưng vẫn ly thân cho đến nay, cả hai bên không quan tâm chăm sóc nhau, bị đơn không đồng ý ly hôn nhưng cũng không có giải pháp khắc phục,mâu thuẫn ngày một trầm trọng. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn ly hôn của chị Trần Thị Kiều H đối với anh Đào Duy T.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là: Đào Duy Đăng K, sinh ngày 02/12/2009. Nhất trí với việc để chị H là người chăm sóc và nuôi dưỡng giáo dục cho con chung đến khi các bên có yêu cầu, thay đổi khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về thủ tục:

Tòa án sau khi thụ lý vụ án theo thẩm quyền, đã tiến hành Thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn Đào Duy T, anh T đã đến nhận trực tiếp, biết nội dung vụ án. Nơi cư trú hiện nay của anh Đào Duy T vẫn ở tại địa chỉ: Nhà NO 10A Khu đô Thị mới Sài Đồng, quận Long Biên, Hà Nội, có xác nhận của cơ quan quản lý về nơi ở thường xuyên của bị đơn, do đó Tòa án tiến hành các thủ tục như lập biên bản xác nhận về việc không tống đạt được các văn bản tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, niêm yết đúng quy định của Pháp luật. Như vậy là hợp lệ đúng trình tự. Tòa án đã hoãn phiên tòa do anh Đào Duy T vắng mặt không lý do lần T nhất. Căn cứ các điều: 28, điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2]. Về quan hệ Hôn nhân: Giữa anh Đào Duy T và chị Trần Thị Kiều H có đăng ký kết hôn ngày 04/02/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Phi Mô, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được Nhà nước công nhận. Trong quá trình chung sống hai bên đã xảy ra mâu thuẫn, và mâu thuẫn này là có thật, ngày càng trầm trọng, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình cũng như tâm lý nuôi dạy con chung của anh chị, mặc dù anh T không có lời khai tại Tòa án, tuy nhiên qua xác minh tại nơi ở chung của anh chị thì Tổ dân phố, cùng hai bên gia đình có xác nhận, mặt khác qua các bức ảnh chị H chụp lại cùng tin nhắn giữa hai bên nguyên đơn và bị đơn thì Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn ngày một trầm trọng với lời lẽ xúc phạm đến nguyên đơn. Như vậy theo quy định tại Điều 89 khoản 1 Luật Hôn nhân gia đình xác định về đời sống hôn nhân trầm trọng: Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác nhằm xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích, cơ quan , tổ chức , đoàn thể nhắc nhở hòa giải nhiều lần.

Trong vụ án này xét thấy có đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho ly hôn. Chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa anh Đào Duy T và chị Trần Thị Kiều H.

Về con chung: Chị Trần Thị Kiều H có một con chung là Đào Duy Đăng K, sinh ngày 02/12/2009 hiện chị là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Do vậy để ổn định việc học tập đối với con chung, tránh xáo trộn nơi học cũng như nơi ở, điều này cũng phù hợp vì chị có chỗ ở ổn định, thu nhập cũng đủ nuôi dạy con chung, mặt khác chị có nguyện vọng tha thiết nuôi dạy con chung vì chị là mẹ đẻ và không có khả năng sinh nở lần nữa, có sổ y bạ và các giấy tờ y tế xác nhận. Do đó chấp nhận yêu cầu nuôi con của nguyên đơn, tại phiên tòa cũng như các lời khai sau này chị chưa có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung với bị đơn, do đó tách ra giải quyết sau này khi chị có yêu cầu hoặc thay đổi khác.

Về Tài sản chung, công nợ: Nguyên đơn không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Chị Trần Thị Kiều H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 56, Điều 58 và các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ( Có hiệu lực ngày 01/01/2015) Áp dụng Điều 147; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử :

1.Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Kiều H đối với anh Đào Duy T. Chị Trần Thị Kiều H được ly hôn với anh T.

2.Về con chung: Có 01 con chung là: Đào Duy Đăng K, sinh ngày 02/12/2009. Giao cho chị Trần Thị Kiều H là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đối với con chung. Yêu cầu về cấp dưỡng đối với con chung sẽ giải quyết khi một trong các bên có yêu cầu thay đổi trong vụ án khác.

Anh Đào Duy T có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

3.Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Xác định không có yêu cầu Tòa án giải quyết

4.Về án phí: Chị Trần Thị Kiều H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, số tiền này được trừ vào tiền án phí tạm nộp theo biên lai thu số: 0016337 ngày 09/6/2020 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Long Biên.

Chị Trần Thị Kiều H có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Anh Đào Duy T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo hạn 15 ngày từ ngày nhận bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 574/2020/HNGĐ ngày 30/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:574/2020/HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về