Bản án 80/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 80/2020/HS-ST NGÀY 25/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 02 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2020/TLST- HS ngày 09 tháng 01 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 66/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2020, đối với:

- Bị cáo: Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1992 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Không có nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh H và bà Trần Kim L1; gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có vợ, con.

Tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 25 tháng 9 năm 2019. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ – Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh Q là người sử dụng trái phép chất ma túy (heroin). Khoảng 18 giờ ngày 25/9/2019, Q điều khiển xe mô tô biển số: 60Y1 - 0906 đến khu vực cây xăng Tín Nghĩa, thuộc Khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai gặp một người đàn ông chạy xe mô tô chở khách (không rõ lai lịch) nhờ mua ma túy để sử dụng. Q đưa cho người đàn ông trên số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng), trong đó 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) mua ma túy, 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) trả tiền công. Khoảng 10 phút sau, người này quay lại đưa cho Q 03 gói ma túy (Heroin). Sau khi mua ma túy, Q cất giấu 03 gói Heroin vào túi quần bên trái mà Q đang mặc thì bị Công an phường L kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 03 (ba) đoạn ống hút nhựa màu hồng bên trong có chứa chất bột màu trắng, Q khai là ma túy Heroin đã được niêm phong, có chữ ký của Nguyễn Thanh Q và hình dấu mộc tròn của Công an phường L.

- 01 (một) bơm kim tiêm; 01 (một) chai nước cất 02ml.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel màu đen số Imei: 354791090832706; số thuê bao 0849922739 là điện thoại của Q, Q không sử dụng điện thoại này vào việc phạm tội.

- 01 (một) xe mô tô biển số: 60Y1 – 0906, số máy V2S150FMG 024475, số khung RMG KCG1NG 71006475, Q khai mượn của một người tên L2 (không rõ lai lịch, địa chỉ), Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu nên tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Tại Kết luận giám định số 1147/KLGĐ-PC09 ngày 02/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1529 gam, loại: Heroin”.

Tại Cáo trạng số: 36/CT-VKSBH ngày 07/01/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

- Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249 và Điểm s, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Q từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh Q thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 18 giờ ngày 25/9/2019, tại khu vực Cây xăng Tín Nghĩa thuộc khu phố 2, phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Thanh Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1529 gam ma túy, loại Heroin (Heroine) thì bị Công an phường L phát hiện, bắt quả tang.

- Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Nguyễn Thanh Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 36/CT-VKSBH ngày 07/01/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Nguyễn Thanh Q để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của pháp luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về các vấn đề khác:

Đối với đối tượng (chưa rõ lai lịch) có hành vi mua bán ma túy cho Q, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

[4] Về vật chứng:

- Vật chứng được kết luận là ma túy thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Biên Hòa thu giữ sau giám định, 01 (một) bơm kim tiêm, 01 (một) chai nước cất 02ml.

- Trả lại cho Nguyễn Thanh Q 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel màu đen số Imei: 354791090832706; số thuê bao 0849922739 do Q không sử dụng điện thoại này vào việc phạm tội.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số: 60Y1 – 0906, số máy V2S150FMG 024475, số khung RMG KCG1NG 71006475, Q khai mượn của một người tên L2 (không rõ lai lịch, địa chỉ), Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu nên tách ra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249, Điểm s, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù được tính từ ngày 25 tháng 9 năm 2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 1147/KLGĐ-PC09 ngày 02/10/2019; 01 (một) bơm kim tiêm, 01 (một) chai nước cất 02ml.

- Trả lại cho Nguyễn Thanh Q 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel màu đen số Imei: 354791090832706; 01 (một) sim điện thoại có số thuê bao 0849922739.

Các vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25 tháng 02 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Nguyễn Thanh Q phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo Nguyễn Thanh Q được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về