Bản án 80/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 80/2020/HS-ST NGÀY 16/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 83/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Lương Đình T, sinh ngày 01/01/1999 tại thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ dân phố 8, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Thanh T và bà Phan Thị L; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/7/2020 đến nay; Có mặt - Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đinh Thị H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt

- Bị hại: Anh Trần Văn V; Sinh năm 1997; Trú tại: Khối phố Y, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Công nhân; Vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phan Thị Ánh D, sinh năm 1981; Trú tại: Khối phố 3, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Vắng mặt

- Người làm chứng: Anh Võ Quốc T; Sinh năm 1965; Trú tại: Tổ dân phố 7, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 18/7/2020, Lương Đình T phát hiện một bộ quần áo và một đôi giày màu đen đã cũ (không xác định được chủ sở hữu) đang phơi ở móc treo đồ tại một công trường xây dựng gần quán Internet 38 Gaming địa chỉ số 08 ngõ 3 đường L, phường T, thành phố H nên lấy mặc vào người rồi đi bộ đến quán Internet 38 Gaming. Khoảng 14 giờ 40 phút cùng ngày, T phát hiện ở bãi để xe của quán Internet 38 Gaming có 01 chiếc xe mô tô Honda Wave Alpha màu đen trắng, BKS: 38P1-464.96 của anh Trần Văn không có ai trông coi nên đi vào lấy chiếc xe đẩy ra ngoài. Khi đẩy xe đến khu vực cổng Chợ Hà Tĩnh, T thấy anh Võ Quốc T là thợ sửa khóa nên nói với anh T xe của mình bị mất chìa khóa và thuê anh T cắt 01 chiếc chìa khóa xe với giá 20.000 đồng. Sau đó, T vứt bộ quần áo và đôi giày đang mặc tại khu vực sông Cụt thuộc phường T, thành phố H và đi đến quán Internet ở thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh đánh điện tử. Tại quán Internet, T mua 01 chiếc biển kiểm soát giả: 38P1-119.99 từ một người không quen biết trên mạng internet với giá là 250.000 đồng. Đến chiều ngày 19/7/2020, T tháo chiếc biển kiểm soát của xe vứt đi và lắp chiếc biển kiểm soát giả vào rồi đưa xe đến cửa hàng cầm đồ Đức Anh ở số 67 N, thành phố H cầm cố cho chị Phan Thị Ánh D với số tiền 4.000.000 đồng. T nói với chị D đây là xe của mình nhưng bị mất giấy tờ chưa làm lại được. Đến tối ngày 21/7/2020, T đến gặp chị D và nói cần thêm tiền nên muốn bán xe. Chị D đồng ý và đưa thêm cho T số tiền 1.200.000 đồng. Số tiền trên T tiêu xài cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 34/KLĐG ngày 23/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Hà Tĩnh xác định: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đen trắng có trị giá 9.500.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên của Hội đồng định giá tài sản.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ tại chị Phan Thị Ánh D 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đen trắng và trả lại cho anh Trần Văn V. Sau khi nhận lại xe và được Lương Đình T bồi thường số tiền 500.000 đồng tiền làm lại biển kiểm soát xe, anh V không yêu cầu bồi thường thêm. Chị Phan Thị Ánh D đã được Lương Đình T bồi thường số tiền 5.200.000 đồng không yêu cầu bồi thường thêm.

Bản cáo trạng số 83/CT-VKSTPHT ngày 12/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Lương Đình T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lương Đình T từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 biển kiểm soát: 38P1-119.99.

Người bào chữa cho bị cáo phát biểu tranh luận: nhất trí với luận tội về tội danh và điều luật áp dụng, về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản1, khoản 2 điều 51; Điều 54, Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo Thanh hưởng mức án thấp nhất, không cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội để bị cáo tiếp tục lao động giúp đỡ gia đình. Bị cáo không tranh luận bổ sung. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 14 giờ 40 phút ngày 18/7/2020, tại bãi để xe của quán Internet 38 Gaming địa chỉ số 08, ngõ 03, đường T, thuộc phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Lương Đình T đã lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô Honda Wave Alpha màu đen trắng, BKS: 38P1-464.96 trị giá 9.500.000 đồng của anh Trần Văn V, thu lợi bất chính số tiền 5.200.000 đồng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “tự nguyện bồi thường thiệt hại”, “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “thành khẩn khai báo” quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc hộ nghèo, mẹ bỏ đi từ khi bị cáo còn nhỏ nên không cần cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục để có cơ hội sửa chữa lỗi lầm và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo thuộc hộ nghèo, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ tại chị Phan Thị Ánh D 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đen trắng trả lại cho bị hại anh Trần Văn V là phù hợp. 01 biển kiểm soát: 38P1-119.99 thu giữ tại chị Phan Thị Ánh D là công cụ phương tiện phạm tội, không sử dụng được theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy.

[6] Về dân sự: Bị hại anh Trần Văn V đã nhận lại tài sản và được bị cáo bồi thường số tiền 500.000 đồng làm lại biển kiểm soát xe, anh V không yêu cầu bồi thường thêm. Chị Phan Thị Ánh D đã được bị cáo bồi thường số tiền 5.200.000 đồng và không yêu cầu bồi thường thêm nên miễn xét.

[7] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề nghị là thỏa đáng, về biện pháp chấp hành hình phạt như đã phân tích ở trên cho bị cáo cải tạo giáo dục tại địa phương là phù hợp. Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ.

[8] Đối với anh Võ Quốc T đã cắt chìa khóa xe cho bị cáo, nhưng xét anh T không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có nên không xử lý là phù hợp. Đối với chị Phan Thị Ánh D nhận cầm cố chiếc xe mô tô BKS: 38P1-464.96, chị D không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có nhưng hành vi nhận cầm cố xe khi không có giấy tờ sở hữu là vi phạm pháp luật nên Công an thành phố Hà Tĩnh ra Quyết định xử phạt hành chính đối với chị D là phù hợp. Đối với hành vi Lương Đình T lấy trộm 01 bộ quần áo cùng một đôi giày tại khu vực phường T, thành phố H, Cơ quan điều tra đã truy tìm vật chứng và xác minh chủ sở hữu nhưng không có kết quả nên không đủ cơ sở để điều tra, làm rõ, xử lý.

[9] Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn tiền án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Lương Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Lương Đình T 07 (bảy) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao Lương Đình T cho Uỷ ban nhân dân phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 biển kiểm soát: 38P1-119.99.

Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:80/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về