Bản án 80/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 80/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 209/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn 5, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T1; địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 9 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T kết hôn với anh Nguyễn Thanh T1 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới vào năm 2009 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 08 tháng 3 năm 2012. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, cuộc sống chung không thống nhất, vợ chồng thiếu tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ tình cảm dẫn đến thường xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Do mâu thuẫn, chị T đã bỏ về ăn ở tại nhà mẹ đẻ ở thôn 5, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng và sống ly thân với anh T1 từ cuối năm 2013 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Thanh T1.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh T1 có 03 con chung tên Nguyễn Đức A, sinh ngày 18 tháng 8 năm 2009; Nguyễn Thủy T, sinh ngày 09 tháng 3 năm 2012; Nguyễn Đại A, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2018. Hiện 02 con chung tên Nguyễn Đức A và Nguyễn Thủy T đang ăn ở chung sống cùng anh Nguyễn Thanh T1, con chung tên Nguyễn Đại A đang ăn ở, sinh sống cùng chị T. Khi ly hôn chị T đề nghị Tòa án giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị T trình bày để chị và anh T1 tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh T1 không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Thanh T1 có nơi cư trú tại thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Thanh T1 không hợp tác, cố tình trốn tránh. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và các văn bản tố tụng khác cho anh T1 nhưng đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai anh Nguyễn Thanh T1 vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày về yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh T1. Giao hai con chung tên Nguyễn Đức A, sinh ngày 18 tháng 8 năm 2009 và Nguyễn Thủy T, sinh ngày 09 tháng 3 năm 2012 cho anh Nguyễn Thanh T1 trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung tên Nguyễn Đại A, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2018 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung chị T không yêu cầu nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Trích lục kết hôn, bản sao sổ hộ khẩu, bản sao giấy chứng minh nhân dân, bản sao giấy khai sinh của con, hợp đồng lao động của chị Nguyễn Thị T; Bản tự khai; Biên bản lấy lời khai; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng và gia đình anh Nguyễn Thanh T1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bị đơn là anh Nguyễn Thanh T1 đang cư trú tại thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn là anh Nguyễn Thanh T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Thanh T1.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh T1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 08 tháng 3 năm 2012 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo tài liệu xác minh tại địa phương và gia đình thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, cuộc sống chung không thống nhất, thiếu tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ tình cảm dẫn đến vợ chồng thường xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng chị T, anh T1 đã được gia đình khuyên bảo, hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn chị T đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn 5, xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng từ cuối năm 2013 và sống ly thân với anh T1 từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Thanh T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T1 đều vắng mặt không có lý do, thể hiện anh T1 không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T và không mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh T1 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Thanh T1.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh T1 có 03 con chung tên Nguyễn Đức Anh, sinh ngày 18 tháng 8 năm 2009; Nguyễn Thủy Tiên, sinh ngày 09 tháng 3 năm 2012; Nguyễn Đại An, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2018. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Đại An, để anh Nguyễn Thanh T1 trực tiếp nuôi hai con chung tên Nguyễn Đức Anh và Nguyễn Thủy Tiên. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét từ khi sống ly thân đến nay, anh Nguyễn Thanh T1 là người trực tiếp nuôi hai con chung tên Nguyễn Đức Anh, Nguyễn Thủy Tiên và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, cháu Nguyễn Đức Anh, Nguyễn Thủy Tiên đều có nguyện vọng ở với bố; chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Đại An, hiện dưới 36 tháng tuổi nên căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Đại An cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Đức Anh và Nguyễn Thủy Tiên cho anh Nguyễn Thanh T1 trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị T đề nghị để chị và anh T1 tự thỏa thuận giao nhận với nhau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T khai chị và anh Nguyễn Thanh T1 không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác, chưa có lời khai của anh Nguyễn Thanh T1 nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh T1 .

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Đức Anh, sinh ngày 18 tháng 8 năm 2009 và Nguyễn Thủy Tiên, sinh ngày 09 tháng 3 năm 2012 cho anh Nguyễn Thanh T1 trực tiếp nuôi dưỡng; giao con tên Nguyễn Đại An, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2018 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh T1 tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000468 ngày 21 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên. Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Thanh T1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:80/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về