TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG
BẢN ÁN 80/2017/HSPT NGÀY 20/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20-9-2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 82/2017/HS-PT ngày 06 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo Đỗ Văn T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 35/2017/HSST ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil.
Bị cáo bị kháng cáo:
Đỗ Văn T– Sinh năm 1961; tại: tỉnh Bình Định; Trú tại: Thôn Sơn Thượng, xã Đăk Gằn, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: làm nông; Trình độ văn hoá: 7/12; Con ông Đỗ Văn G - sinh năm 1936và con bà Nguyễn Thị Kh- sinh năm 1936 (đều đã chết); Có vợ Nguyễn Thị B - sinh năm 1961 và 05 người con (Con lớn nhất sinh năm 1983, con nhỏ nhất sinh năm 1996), hiện đều trú tại Thôn Sơn Thư, xã Đăk G, huyện Đăk M, tỉnh Đăk Nông; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/6/2017, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đăk Mil - Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
*/ Người bị hại: Anh Hoàng Văn D - Có mặt.
Trú tại: Thôn Nam Đ, xã Đăk G, huyện Đăk M, tỉnh Đăk Nông
*/Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Hoàng Quốc V - Vắng mặt.
Trú tại: Thôn Quỳnh N, xã E, huyện Krông A, tỉnh Đăk Lăk.
2. Anh Lê Trung Tín - Vắng mặt.
Trú tại: Buôn R, xã Hòa P, Tp. B, tỉnh Đăk Lăk
3. Anh Đỗ Văn H – Vắng mặt.
Trú tại: Thôn N, xã Đăk G, huyện Đăk M , tỉnh Đăk Nông
4. Chị Nguyễn Thị L - Vắng mặt.
Trú tại: Thôn N, xã Đăk G, huyện Đăk M, tỉnh Đăk Nông
5. Anh Nguyễn Văn M – Vắng mặt.
Trú tại: Thôn Sơn T, xã Đăk G, huyện Đăk M, tỉnh Đăk Nông
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Milvà bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08h00’ ngày 10/4/2016, khi thấy gia đình anh Hoàng Văn D (trú tại thôn Nam Định, xã Đắk Gằn, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông), rời khỏi nhà. Đỗ Văn T nảy sinh ý định đột nhập vào nhà anh Hoàng Văn D trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Đỗ Văn T chuẩn bị 01 dao thái lan, 04 sợi dây vải, 02 vỏ bao màu đỏ, rồi đi bộ qua nhà anh Hoàng Văn D, thấy cửa sổ bên trái (theo hướng từ ngoài vào) chỉ khép không chốt trong, Đỗ Văn T đi vào nhà kho của anh Hoàng Văn D lấy 01 chiếc dao phát rồi dùng dao chém mạnh vào khung cửa sổ làm vỡ mối hàn. Đỗ Văn T tiếp tục dùng hai tay đẩy song cửa sắt qua một bên và trèo vào nhà đi xuống khu vực nhà bếp phát hiện 04 bao màu xanh lam đựng hạt tiêu khô xếp chồng lên nhau, Đỗ Văn T dựng 01 bao tiêu lên dùng dao thái lan cắt miệng bao rồi trút một nửa qua bao màu đỏ, dùng dây vải buộc miệng bao lại đem đến dấu tại vườn cà phê của gia đình Đỗ Văn T cách nhà anh Hoàng Văn D khoảng 300m, sau đó Đỗ Văn T quay lại nhà của anh Hoàng Văn D tiếp tục dựng bao tiêu màu xanh thứ 02 lên cắt miệng bao rồi trút một nửa qua bao màu đỏ, dùng dây vải buộc miệng bao đem đến cất dấu bên cạnh bao đầu tiên. Sau đó quay lại nhà anh Hoàng Văn D dồn hai nửa bao tiêu màu xanh vào thành một bao buộc miệng bao lại đem đến cất dấu cùng hai nửa bao tiêu trộm cắp trước đó. Đỗ Văn T đi về nhà lấy xe mô tô biển số 47N9 - 9234 (xe Đỗ Văn T mua tại cửa hàng xe máy Trung T chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ) và 01 vỏ bao màu đỏ đến nơi cất dấu dồn các bao tiêu lại trong 02 bao tiêu màu đỏ (quá trình dồn Đỗ Văn T bỏ luôn vỏ bao màu xanh vào trong bao tiêu màu đỏ) rồi chở đến đại lý thu mua nông sản Minh V (địa chỉ thôn Sơn T, xã Đắk G, huyện Đắk M) cân được 90kg và bán được hơn 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng). Số tiền này Đỗ Văn T đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 25/HĐĐGTS ngày 22 tháng 08 năm 2016, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk Mil xác định: 90kg hạt tiêu khô tại thời điểm bị chiếm đoạt là 14.400.000đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 35/2017/HSST ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: khoản 1 Điều 138; các điểm b,h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn T 01 (Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 08/6/2017.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 22/8/2017, bị cáo Đỗ Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Đỗ Văn T thừa nhận Toà án nhân dân huyện Đăk Mil xử phạt bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh ĐăkNông, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a, khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2017/HS-ST ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil xét xử và xử phạt bị cáo Đỗ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo: HĐXX xét thấy, bị cáo Đỗ Văn T đã có hành vi“Trộm cắp tài sản” với tổng giá trị là 14.400.000 đồng, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại số tiền 16.500.000 đồng và được người bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt, xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, điểm h, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng nào, Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 01 năm tù là có phần nghiêm khắc đối với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Mặc dù tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Tkhông cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào khác, nhưng để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội cần giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Do đó Hội đồng xét xử xét thầy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 248, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự
1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ h ình phạt của bị cáo Đỗ Văn T ,sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, khoàn 2 Điều 46; xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 08/6/2017.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 80/2017/HSPT ngày 20/09/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 80/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về