Bản án 79/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 79/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Trong ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử công khai vụ án thụ lý số 91/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2020 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2020/QĐST ngày 22 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Tr, sinh năm 1994; Nơi dăng ký HKTT trước khi xuất cảnh: Xóm A, xã Đ, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Hiện đang cư trú tại: Tokushimaken tokushimashi, Kawuchichoenokize 502-50 Seikouapaato 203 goushitsu – Nhật Bản. Đề nghị vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1994; Nơi ĐKHKTT trước khi xuất cảnh: Xóm V, xã Đ, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Hiện đang cư trú tại: Hàn Quốc. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 06 tháng 9 năm 2019, lời khai chị Phan Thị Tr trình bày: Chị Tr và anh Hoàng Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký ngày 12/3/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với nhau được hai tuần, hai người tiếp tục sang Nhật Bản du học thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do quan điểm sống hai người không phù hợp anh H không quan tâm đến việc xây dựng gia đình nên vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Đến tháng 8/2018 anh H hết hạn visa, nên phải về nước, vợ chồng cắt đứt mọi liên lạc không quan tâm gì đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Nay xác định, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị Tr yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn anh Hoàng Văn H để giải phóng cho chị.

- Về con chung: Chị Tr và anh H chưa có con chung nên không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản chung và các khoản nợ chung vợ chồng: Không có, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về phía anh Hoàng Văn H: Sau khi thụ lý vụ án Toà án đã gửi các văn bản tố tụng; Thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu anh Hoàng Văn H có quan điểm về việc giải quyết vụ án; Quyết định đưa vụ án ra xử…cho anh H thông qua ông Hoàng Vũ Viết và bà Nguyễn Thị Xuân bố, mẹ của anh H, nhưng hiện anh Hoàng Văn H vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ và đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định, đảm bảo quyền, nghĩa vụ của họ. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo ông Hoàng Vũ V và bà Nguyễn Thị X bố, mẹ của anh H thì anh Hoàng Văn H hiện đang lao động tại Hàn Quốc, mặc dù không có nơi cư trú cụ thể, nhưng anh H thường xuyên liên lạc bằng điện về cho ông Viết, bà Xuân nên anh H cũng đã biết được việc chị Tr xin ly hôn anh và không có ý kiến gì. Việc anh Hoàng Văn H vắng mặt được xác định, cố tình giấu địa chỉ và không khai báo, do đó đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định và cho họ ly hôn nhau để giải phóng cho chị Tr; tài sản chung chưa giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Anh Hoàng Văn H hiện đang ở nước ngoài, trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, theo ông Hoàng Vũ Viết, bà Nguyễn Thị Xuân bố, mẹ của anh H xác định, anh Hoàng Văn H hiện đang lao động tại Hàn Quốc mặc dù không biết nơi cư trú cụ thể, nhưng anh H thường xuyên liên lạc bằng điện thoại về cho ông Viết, bà Xuân nên anh H đã biết được việc chị Tr xin ly hôn anh và cũng không có ý kiến gì. Do đó, việc anh Hoàng Văn H vắng mặt thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ; từ chối khai báo theo quy định tại Công văn số 253/TATC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài không rõ địa chỉ. Đối với chị Phan Thị Tr, sau về nước làm đơn khởi kiện và đã có trình bày quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, nhưng do điều kiện học tập, công tác ở nước ngoài, nên chị Tr đề nghị Tòa án giải quyết xét xử vắng mặt và nhờ bà Nguyễn Thị Nguyệt là mẹ của chị Tr giao nhận các văn bản của Tòa án. Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 207, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành giải quyết và xét xử vụ án theo thủ tục chung để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.

Về nội dung: Tại phiên tòa, mặc dù vắng mặt, nhưng chị Phan Thị Tr vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện, yêu cầu được ly hôn với anh Hoàng Văn H. Xét thấy, chị Phan Thị Tr và anh Hoàng Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi kết hôn hai người sống chung với nhau được hai tuần, sau đó vợ chồng tiếp tục sang Nhật Bản du học thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do quan điểm sống hai người không phù hợp anh H không quan tâm đến việc xây dựng gia đình nên vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Đến tháng 8/2018 anh H hết hạn visa, nên phải về nước, vợ chồng cắt đứt mọi liên lạc không quan tâm gì đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Nay chị Phan Thị Tr xác định, tình cảm vợ chồng không còn; mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho họ ly hôn để giải phóng cho nhau.

Về con chung, tài sản và nợ chung: Theo chị Phan Thị Tr vợ chồng chưa có con chung, không có tài sản và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, hiện tại chưa có ý kiến của anh Hoàng Văn H nên Tòa án chưa có cơ sở để xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

Về án phí: Chị Phan Thị Tr phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, khoản 4 Điều 207; Khoản 3 Điều 228; Điều 147; Khoản 1, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 53, 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phan Thị Tr và anh Hoàng Văn H.

2. Về con chung; tài sản và nợ chung: Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

3. Về án phí: Chị Phan Thị Tr phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An theo biên lai số 0000008 ngày 10/6/2020 (Bà Nguyễn Thị Nguyệt nộp thay).

4. Về quyền kháng cáo:

4.1. Chị Phan Thị Tr có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được hoặc được tống đạt hợp lệ bản sao bản án sơ thẩm.

4.2. Anh Hoàng Văn H đang cư trú ở nước ngoài vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được hoặc được niêm yết bản sao bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:79/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về