Bản án 79/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 79/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ VIỆC LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 62/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 59/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Tổ A, Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Có mặt”

Bị đơn: Ông Nguyễn H, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Tổ A, Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07/02/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Sau một thời gian tìm hiểu thì bà Lê Thị T và ông Nguyễn H kết hôn trên tinh thần tự nguyện, không bị ai ép buộc, được hai bên gia đình đồng ý, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 28/3/2013. Sau khi kết hôn vợ, chồng chung sống bên nhà chồng tại Tổ A, Ấp B, xã C, huyện D và chung sống hạnh phúc đến tháng 10/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông H ghen tuông và thường gây gỗ với bà T nên vợ, chồng sống không hạnh phúc và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Tháng 10/2019, bà T đã về nhà cha, mẹ sống và ly thân ông H từ đó đến nay.

Trong thời gian ly thân thì hai bên không gặp nhau để hàn gắn tình cảm, nay bà T nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông H.

Về con chung: Bà T và ông H có 02 con chung tên là Nguyễn Vũ H1, sinh ngày 02/11/2013 và Nguyễn Vũ H2, sinh ngày 13/3/2017. Hiện nay các con chung đang sống cùng bà T, khi ly hôn bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi mỗi con chung là 1.000.000đ/tháng cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – ông Nguyễn H vắng mặt trong quá trình tố tụng.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án số 62/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2020 và các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, kèm theo giấy triệu tập ông H đến Tòa án để làm việc, nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do, đồng thời không có văn bản gửi cho Tòa án nêu ý kiến về nội dung vụ án, vì vậy Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng quy định pháp luật. Về thời hạn giải quyết vụ án còn kéo dài quá 04 tháng là chưa đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng do bị đơn không hợp tác nên cần có thời gian để hoàn thành các thủ tục tố tụng, nhưng Tòa án cần rút kinh nghiệm.

Đối với các đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn vắng mặt trong quá trình tố tụng và vắng mặt tại các phiên tòa sơ thẩm là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà T được ly hôn ông H. Về con chung, đề nghị giao cháu H1 và cháu H2 cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng và buộc ông H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện D nhận định:

[1]. Về tố tụng.

Ông Nguyễn H có nơi cư trú tại Tổ A, Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bà Rịa - Vũng theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia các phiên tòa sơ thẩm ngày 31/7/2020 và ngày 28/8/2020, nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo quy định.

[3]. Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 20, quyển số 02, ngày 28/3/2013 của Ủy ban nhân dân xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xác định hôn nhân giữa bà Lê Thị T và ông Nguyễn H là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 10/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không tin tưởng nhau nên hai bên đã sống ly thân từ tháng 10/2019 đến nay, không còn quan hệ gì về tình cảm cũng như kinh tế. Nay, bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H. Xét thấy hôn nhân của bà T và ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận cho bà T được ly hôn ông H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[4]. Về con chung: Xét yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng các con chung của bà T, thấy rằng: Hiện nay các cháu Nguyễn Vũ H1 và Nguyễn Vũ H2 đang sống với bà T, vì vậy giao các cháu H1 và Hưng cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bà T là có căn cứ và phù hợp với quy định khoản 2 Điều 82 và khoản 1 Điều 116 Luật hôn nhân gia đình nên chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bà T và buộc ông H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hằng tháng đối với các cháu H1 và cháu H2, mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

[5]. Về tài sản và nợ chung: Không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[6]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và ông H phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 và Điều 118 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn ông Nguyễn H.

2. Về con chung: Giao các cháu Nguyễn Vũ H1, sinh ngày 02/11/2013 và Nguyễn Vũ H2, sinh ngày 13/3/2017 cho bà Lê Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Nguyễn H phải cấp dưỡng nuôi con hằng tháng đối với các cháu Nguyễn Vũ H1 và Nguyễn Vũ H2 mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu Nguyễn Vũ H1 và Nguyễn Vũ H2 đủ 18 tuổi.

Ông Nguyễn H có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003933 ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà Lê Thị T đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Buộc ông Nguyễn H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí về cấp dưỡng nuôi con.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

6. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu thi hành án:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:79/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về