Bản án 79/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 79/2019/HS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2019/HSST ngày 03 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2019/HSST-QĐ ngày 13 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:

Vũ Xuân H, sinh ngày 09/4/1982; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn H, xã HĐ, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; Quốc Tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; văn hóa: 6/12; đoàn thể, Đảng phái: Không; con ông Vũ Đức T và bà Lê Thị S; có vợ là Nguyễn Thị V và có 03 con; quá trình hoạt động bản thân: Không; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 18/HSST ngày 22/12/2000 của Tòa án nhân dân huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Vũ Xuân H 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/02/2019 đến nay (có mặt).

Người làm chứng: Ông Hứa Minh S, sinh năm 1961; nơi cư trú: Tổ dân phố Khâu 2, phường Tích Sơn, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 18/02/2019, tại ngã tư giao nhau giữa đường NTT và đường PVĐ thuộc khu vực phường TS, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, Tổ công tác Công an phường TS, thành phố V kiểm tra hành chính, phát hiện, thu giữ trong lòng bàn tay phải của Vũ Xuân H 02 gói giấy màu trắng, có dòng kẻ chấm xanh, bên trong đều chứa chất bột màu trắng (Hòa khai nhận là ma tuý Heroine vừa mua được, mục đích để sử dụng cho bản thân) được niêm phong bì thư ký hiệu A1. Đối tượng nam giới (H không biết tên, tuổi, địa chỉ) đi cùng H lợi dụng sơ hở điều khiển xe máy bỏ chạy.

Tại kết luận số 261/KLGĐ ngày 21/02/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,4139g (không phẩy bốn một ba chín gam, không kể bao bì). Khối lượng Heroine trong 0,4139g mẫu là 0,1680g”.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ, quá trình điều tra Hòa khai nhận do Hòa cùng người nam giới (Hòa không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) mua của một người phụ nữ (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) tại ngõ 4, phố C, phường NQ, thành phố V với giá 350.000đ, mục đích để sử dụng cho bản thân. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an phường NQ về người phụ nữ có đặc điểm như mô tả của Hòa nhưng chưa xác định được người phụ nữ này là ai, ở đâu.

Đối với đối tượng nam giới đi mua ma tuý cùng H là bạn nghiện ngoài xã hội với H. Do mới quen biết nên H không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này. Khi H và nam giới này bị tổ công tác Công an phường TS kiểm tra hành chính, người này lợi dụng sơ hở bỏ trốn, tổ công tác tiến hành truy đuổi nhưng không bắt được, H cũng không nhớ biển kiểm soát, đặc điểm chiếc xe máy người nam giới sử dụng để chở H đi mua ma tuý.

Tại Cáo trạng số: 75/CT-VKSTP.VY ngày 31/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố Vũ Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm 03 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật ma túy còn lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Vũ Xuân H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản sự việc; phù hợp với vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 18/02/2019, tại ngã tư giao nhau giữa đường NTT và đường PVĐ thuộc khu vực phường TS, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Vũ Xuân H có hành vi tàng trữ 02 gói ma tuý heroine (có trọng lượng 0,4139g, trọng lượng heroine trong mẫu vật thu giữ là 0,1680g) mục đích để sử dụng thì bị Công an phường TS, thành phố V kiểm tra hành chính phát hiện.

Hành vi của bị cáo Vũ Xuân H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Nội dung điều luật quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... .thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[2] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý xã hội được pháp luật bảo vệ và xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Tàng trữ, sử dụng ma tuý là một tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội, ma túy không những làm ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của con người, xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc mà còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Vì vậy, cần phải xử bị cáo mức hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân xấu, Bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 18/HSST ngày 22/12/2000. Bị cáo đã được xóa án tích nên không tính là tiền án nhưng bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật, chứng tỏ bị cáo là đối tượng coi thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[4] Về đối tượng liên quan và vật chứng:

Đối với người nam giới rủ bị cáo đi mua ma túy để sử dụng và người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên, tuổi và địa chỉ nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với mẫu vật ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu, tiêu hủy.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Xuân H 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 18/02/2019).

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định gồm: Mẫu A1 = 0,2268g và toàn bộ bao gói.

(Các vật chứng có đặc điểm theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 6 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V).

3. Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Vũ Xuân H phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về