Bản án 79/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 79/2019/HS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ an hình sự sơ thẩm thụ lý 89/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị N - sinh năm 1973 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: đường L, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa:02/10; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Ngọc H (đã chết) và bà Trần Thị V (đã chết); Tiền án: Ngày 05/6/2000 bị TAND tỉnh Thanh Hóa xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 22/4/2015 TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Tiền sự: không; tạm giữ: ngày 24/11/2018; tạm giam: ngày 30/11/2018, “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20h ngày 24/11/2018, đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị N đang tàng trữ trong người 01 gói nilong màu đen kích thước 1 x 1cm bên trong chứa các cục vụn màu trắng, N khai là hêrôin mang đi bán cho các đối tượng nghiện để kiếm lời.

Tại bản kết luận giám định số 48/MT- PC54 ngày 27/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh hoá kết luận: chất cục bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám địnhlà ma túy có khối lượng 0,653g loại Hêrôin.

Tại cơ quan điều tra N khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, để có tiền đểmua ma túy sử dụng nên N nảy sinh ý định ma ma túy về bán lại kiếm lời. Ngày 23/11/2018 N gặp một người phụ nữ tên V là đối tượng nghiện khoảng 40 tuổi, nhà ở H, phường L. V bảo N nếu có ma túy thì mang đến nhà bán cho V. Khoảng 19h ngày 24/11/2018 N đến khu vực ngã ba B, phường T, thành phố T mua của một người đàn ông khoảng 35 tuổi nhưng không biết tên và địa chỉ 01 gói ma túy giá 500.000đ. Sau khi mua N cất gói ma túy vào trong người và mang đến bán cho V nhưng chưa kịp bán thì bị bắt.

Đối với người nam giới bán ma túy cho N, do N không biết tên, địa chỉ của này nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh xử lý.

Đối với người phụ nữ tên V, cơ quan Công an đã tiến hành xác minh tại khu vực đường H, phường L nhưng không có người nào tên V như miêu tả của N nên cơ quan Công an không có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 25 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá truy tố bị cáo Nguyễn Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 BLHS.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng điểm q khoản 2, 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 07 năm đến 08 năm tù. Phạt tiền bị cáo từ 05 triệu đến 07 triệu đồng.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảmnhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

 [2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án thấy đủ cơ sở chứng minh: Vào khoảng 20h ngày 24/11/2018, tại phố H, phường L, thành phố T. Nguyễn Thị N đang tàng trữ 0,653g Hêrôin để bán cho đối tượng nghiện để kiếm lời. Do bị cáo N đã tái phạm nay lại phạm tội do cố ý, do vậy lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của Nguyễn Thị Ncó đủ các dấu hiệu cấu thành tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của BLHS.

[3] Tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Mặc dù dị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp nên bị cáo đã mua bán trái phép chất ma túy để kiếm lời. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an chung cần phải xử lý nghiêm minh để giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu đã bị cải tạo, giáo dục nhiều lần nay lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật. Với tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm về ma túy, mức độ và hành vi phạm tội thì việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên khi áp dụng hình phạt cần căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Do bị cáo mua bán ma túy với mục đích kiếm lời nên cần căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền 5 triệu đồng đối với bị cáo là phù hợp.

 [6] Về vật chứng: Toàn bộ số ma túy thu của bị cáo được niêm phong bằng phong bì thư là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy. Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

 [7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm q khoản 2,5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Nguyễn Thị N 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 24/11/2018.

Phạt bị cáo Nguyễn Thị N 5.000.000đ để sung quỹ nhà nước.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong bằng phong bì thư của Công an tỉnh Thanh Hóa có chữ ký chữ viết của Lại Thị Thanh Loan, Nguyễn Bá Sỹ, Nguyễn Trần Đăng.

Số ma túy trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 88/THA ngày 29/01/2019).

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền án phí và tiền phạt theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.[[

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về