Bản án 79/2019/HSST ngày 10/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 79/2019/HSST NGÀY 10/07/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2019/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đoàn Khánh N – tên gọi khác: không; Sinh ngày 08 tháng 11 năm 1998 tại Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT: Thôn 2, xã SL, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: Thôn LĐ, xã TL, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh, Quốc tịch: V Nam, Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 7/12, Nghề nghiệp : Làm thuê; Con ông ông Đoàn Tấn K, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị K1, sinh năm 1957; Vợ: Thị T (không đăng ký kết hôn); Con: 01 người con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 29/3/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 21/2019/HSST.

Hiện bị cáo đang chấp hành án tại tại giam Thủ Đức (Z30D) - Bộ Công an.

2. Họ và tên: Đoàn Tấn V – tên gọi khác: không; Sinh năm 1994 - tại Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT: Thôn 2, xã SL, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: Thôn LĐ, xã TL, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh, Quốc tịch: V Nam , Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 7/12, Nghề nghiệp : lái xe ; Con ông Đoàn Tấn K, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị K1, sinh năm 1957; Vợ: Nguyễn Thị Kim Đ (không đăng ký kết hôn),Con: có 02 người con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2019; Tiền án: Ngày 11/8/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo bản án số 65/2015/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/08/2017; Tiền sự: không.

Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 22/4/2019, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết.

*Người bị hại: Đỗ Văn P– sinh năm 1964 (vắng mặt, có đơn xin vắng).

Đa chỉ: kp 13, phường PT, Phan Thiết, Bình Thuận.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Lê Văn A– sinh năm 1988 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp TL, xã TĐH, tx Dĩ An, Bình Dương.

Trần Văn X– sinh năm 1984 (vắng mặt)

Địa chỉ: xóm 11, xã MT, huyện Yên Thành, Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền trả nợ nên Đoàn Khánh N (sinh năm 1998) bàn bạc với anh ruột là Đoàn Tấn V (sinh năm 1994, cùng trú tại: thôn 2, xã SL, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) làm giả giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe ô tô mục đích để thuê xe ô tô tự lái mang đi cầm thế hoặc bán lấy tiền thì V đồng ý. Sau khi bàn bạc thống nhất xong, ngày 15/12/2018 N và V đi đến đến quán cà phê T&T ở xóm Vắng, khu phố Nhi Đồng 1, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tìm gặp Lê Văn A (là bạn của Việt, sinh năm 1988, thường trú tại: xã Thạch Thanh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Do V biết A thường làm giả các loại giấy tờ nên đã đặt vấn đề nhờ A làm 01 giấy chứng minh nhân dân giả và 01 giấy phép lái xe ô tô giả cho N thì A trả lời: “Đang bị đau chân để khi nào khỏi chân thì làm cho”. Ngồi uống cà phê lúc này có đối tượng tên Q (là bạn A, chưa rõ nhân thân) cũng thường làm giả các loại các giấy tờ nên A nhờ Q làm giùm cho N. Q nói: “Giá là 2.500.000 đồng”. N, V đồng ý rồi tạo một thông tin giả về nhân thân (thông tin này do N yêu cầu) và đưa cho Q 02 tấm hình, kích thước khoảng (2 x3)cm của N (đã chuẩn bị sẵn từ trước). Thỏa thuận xong, N và V đi về nhà nghỉ Sao Băng gần đấy để chờ. Đến khoảng 17 giờ chiều ngày 17/12/2018, N và V quay lại quán cà phê T&T thì Q đưa cho V 01 giấy chứng minh nhân dân giả số 281109998; 01 giấy phép lái xe ô tô giả đều mang hình của N và mang tên Nguyễn Văn Hải (sinh ngày 12/4/1990, thường trú: Khu 9, phường Phú Hòa, TP.Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương). Sau đó, V đưa giấy tờ giả trên cho Nam. Trong toàn bộ quá trình thỏa thuận, giao dịch làm giả giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe nói trên, Lê Văn A và Q đều không biết mục đích của N và V là để sử dụng nhằm thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi có được giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe giả, N lên mạng tìm kiếm chỗ cho thuê xe ô tô tự lái trên địa bàn thành phố Phan Thiết thì tìm được dịch vụ cho thuê xe do ông Đỗ Văn P (sinh năm 1964, địa chỉ: 451 TKH, thuộc kp13, phường Phú Thủy, Tp Phan Thiết) làm chủ. N gọi điện cho ông P nói: “Cháu cần thuê 01 chiếc xe ô tô tự lái để về TP.Hồ Chí Minh thăm gia đình khoảng 04 đến 05 ngày”. Ông P đồng ý và hẹn N đến nhà để thực hiện hợp đồng thuê.

Sau khi thỏa thuận xong, N và V đón xe khách từ Bình Dương về thành phố Phan Thiết. Tới nơi, N và V thuê khách sạn Bảo Khang trên đường Thủ Khoa Huân để nghỉ. Đến 01 giờ ngày 19/12/2018, N một mình đi Taxi đến nhà ông P để thuê xe. Tại đây, N đưa cho ông P giấy chứng minh nhân dân giả mang tên Nguyễn Văn Hải (vừa thuê Q làm ở Bình Dương) để làm hợp đồng thuê xe. Do không phát hiện ra giấy chứng minh nhân dân trên là giả nên ông P xem xong thì đồng ý cho N thuê 01 chiếc xe ô tô biển số 86A-017.06, nhãn hiệu Toyota, loại Innova với giá 2.200.000 đồng trong thời hạn 04 ngày (từ ngày 19 đến ngày 22/12/2018). Tại hợp đồng Thuê xe, N ký và ghi tên là Nguyễn Văn Hải và đưa trước cho ông P 1.000.000 đồng. Ông P giao xe cho N kèm theo 01 bản phô tô giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô 86A-017.06; 01 bản chính giấy chứng nhận kiểm định và 01 bản chính giấy bảo hiểm của xe.

Sau khi thuê được xe, N điều khiển đến đón V tại khách sạn Bảo Khang rồi cả hai đi thành phố Hồ Chí Minh để tìm nơi tiêu thụ. Trên đường đi, V gọi điện thoại cho Lê Văn A nhờ tìm người cầm thế hoặc bán lại chiếc ô tô trên thì A hỏi: “Xe có giấy tờ gì không?” V trả lời: “Có đầy đủ”. Nghe điện thoại của V xong, A gọi điện thoại cho Trần Văn X (sinh năm 1984, trú tại: xóm 11, xã Mỹ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) nhờ X tìm người tiêu thụ thì X gọi điện thoại cho một người tên Đ (không rõ nhân thân) để trao đổi. Sau quá trình trao đổi, Đ đồng ý mua lại chiếc ô tô trên với giá 150.000.000 đồng và hẹn địa điểm gặp tại ngã ba Trung Mỹ Tây 2A, phường Trung Mỹ Tây, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh để giao dịch. Thỏa thuận với Đ xong, X gọi lại A rồi A gọi lại cho V báo đã tìm được người mua xe với giá 150.000.000 đồng và hẹn đến cầu vượt Quang Trung, quận 12, TP Hồ Chí Minh để giao dịch thì Việt và N đồng ý. Đến khoảng 6 giờ 30 phút ngày 19/12/2018, X điều khiển xe mô tô biển số 60B3 – 055.89 chở A đến gặp V và N tại địa điểm đã hẹn. Khi gặp nhau thì V mới nói cho X và A biết chiếc xe Innova trên là xe thuê ở Bình Thuận. Tuy nhiên, Lê Văn A khai: “A không biết nguồn gốc của chiếc xe trên từ đâu mà N và V có”. Đối với Trần Văn X khai: “Khi gặp N và V thì X có nghe V và N nói chiếc xe trên là xe thuê của người khác để tự lái”. Đến khoảng 8 giờ 30 phút cùng ngày thì Đ gọi điện thoại cho A nói đổi địa điểm đến cầu vượt An Sương để giao dịch. Nói xong, A lên xe ô tô biển số 86A - 017.06 do V điều khiển, còn N lên xe mô tô do X điều khiển đến gặp Đ. Khi tất cả đang xem giấy tờ xe thì bị phát hiện bắt giữ.

Đến sáng ngày 19/12/2018, Ông Đỗ Văn P phát hiện Chứng minh thư nhân dân N đưa để thuê xe là giả nên đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bình Thuận trình báo sự việc, đồng thời sử dụng hệ thống định vị thì phát hiện xe ô tô biển số 86A – 017.06 đang di chuyển trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 19/12/2018, Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận đã phối hợp với Phòng Cảnh sát hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh điều tra vụ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên. Qua tuần tra, xác minh Công an TP.Hồ Chí Minh đã P hiện chiếc xe trên đang di chuyển tại góc ngã ba Trung Mỹ Tây, phường Trung Mỹ Tây, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh nên đã đưa các đối tượng cùng xe ô tô về trụ sở làm việc. Riêng Đ và đối tượng đi cùng lợi dụng sơ hở đã chạy thoát.

Vt chứng của vụ án:

- 01 chiếc xe ô tô biển số 86A-017.06, hiệu Innova màu sơn bạc (đây là chiếc xe N thuê của ông P);

- Thu giữ từ Đoàn Khánh N: 01 giấy phép lái xe hạng C (bản chính) số: 790182176525 mang tên Nguyễn Văn Hải, sinh ngày 12/4/1990, nơi cư trú: Kp9, phường Phú Hòa, TP.Thủ dầu 1, tỉnh Bình Dương do sở giao thông vận tải TP.Hồ Chí Minh cấp ngày 20/12/2017 (N khai đây là giấy phép lái xe giả Nsử dụng đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản).

- Thu giữ từ Đoàn Tấn V:

+ 01 điện thoại di động hiệu Viettel, số Imei 1: 865961018220308, số Imei 2: 865961018220316 màu đen (là điện thoại V dùng để liên lạc tìm người tiêu thụ tài sản phạm tội);

+ 01 giấy phép lái xe ô tô (bản phô tô) số: 790182176525 hạng C, mang tên Nguyễn Văn Hải, sinh ngày 12/4/1990, nơi cư trú: Kp9, phường Phú Hòa, TP.Thủ dầu 1, tỉnh Bình Dương do sở giao thông vận tải TP.Hồ Chí Minh cấp ngày 20/12/2017;

+ 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (bản chính) số KC: 7038896, do trung tâm đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Bình Thuận cấp ngày 16/10/2018 cho chủ xe ô tô 86A-017.06;

+ 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của xe ô tô (bản chính) số 18120748 ngày 15/10/2018 do TCT CP bảo hiểm quân đội cấp cho chủ xe ô tô 86A – 017.06.

- Thu giữ từ Trần Văn X: 01 xe mô tô hiệu Novo biển số 60B3-05589, số khung RLCN5P110BY391777, số máy: 5P11 – 391780 (X khai đây là chiếc xe X sử dụng để chở Lê Văn Atừ Bình Dương lên thành phố Hồ Chí Minh để gặp Nvà V).

- Tạm giữ của ông Đỗ Văn P:

+ 01 giấy chứng minh nhân dân (bản chính) số 281109998 mang tên Nguyễn Văn Hải, sinh ngày 12/4/1990, thường trú: Kp9, phường Phú Hòa, TP.Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (đây là chứng minh nhân dân giả Nđưa cho ông P để làm hợp đồng thuê xe);

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô (bản chính) số: 011682 do Công an tỉnh Bình Thuận cấp ngày 01/6//2017 do chủ xe ô tô 86A – 017.06, ông Đỗ Văn Tuấn Vũ (sinh năm 1989, số 451 Thủ Khoa Huân, khu phố 13, phường Phú Thủy, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận).

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 1091/HĐĐG ngày 21/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Bình Thuận kết luận: 01 chiếc xe ô tô biển kiểm soát 86A-017.06, hiệu TOYOTA loại INNOVA màu bạc, số khung: 42G6D9406513; số máy: 1TR7633731 trị giá: 389.400.000 đồng.

Đi với chiếc xe ô tô biển số 86A-017.06 mà ông P cho Nthuê vào ngày 19/12/2018. Qua xác minh, xác định: ông P là người mua chiếc xe trên để gia đình sử dụng và cho khách thuê lại nhưng đứng tên chủ sở hữu là anh Đỗ Văn Tuấn Vũ (con trai ông P).

Căn cứ vào bản kết luận giám định số 1185/KLGĐ-PC09 ngày 24/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kêt luận: 01 giấy chứng minh dân dân số: 281109998 mang tên Nguyễn Văn Hải (sinh ngày 12/4/1990, trú tại Kp9, phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương cấp ngày 16/7/2014 là giả.

Căn cứ vào bản kết luận giám định số 18/KLGĐ-PC09 ngày 28/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: 01 giấy phép lái xe bằng nhựa PET, hạng c số: 790182176525, mang tên Nguyễn Văn Hải sinh ngày 12/04/1990 nơi cư trú: Kp9, phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, do sở giao thông vận tải TP.Hồ Chí Minh cấp ngày 20/12/2017 là giả.

Về xử lý vật chứng của vụ án:

Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng, trả lại chiếc ô tô biển số 86A – 017.06 cùng các giấy tờ có liên quan cho chủ sở hữu. Anh Vũ đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm về phần dân sự. (BL: 74 - 77);

Đi với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Viettel, số Imei1: 865961018220308, số Imei 2: 865961018220316 màu đen thu giữ của Đoàn Tấn V. Quá trình điều tra xác định đây là điện thoại V dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết đã chuyển đến kho tang vật của Chi cục thi hành án Phan Thiết chờ xử lý;

Đi với 02 giấy phép lái xe (01 bản chính và 01 bản phô tô) hạng C số: 790182176525 và 01 giấy chứng minh nhân dân (bản chính) số 281109998 cùng mang tên Nguyễn Văn Hải, sinh ngày 12/4/1990, nơi cư trú: Kp9, phường Phú Hòa, TP.Thủ dầu 1, tỉnh Bình Dương do sở giao thông vận tải TP.Hồ Chí Minh cấp ngày 20/12/2017 hiện được lưu giữ cùng hồ sơ vụ án để phục vụ cho quá trình xét xử vụ án.

Đi với 01 chiếc xe mô tô hiệu Novo biển số 60B3 – 05589, số khung RLCN5P110BY391777, số máy: 5P11 – 391780 thu giữ từ Lê Văn An. Qua xác minh xác định chủ sở hữu là anh Nguyễn Ngọc Hiếu (sinh năm 1986, trú tại 101/2 Phú Lâm 5, xã Phú Sơn, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai). Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết chưa xác định được chủ sở hữu hiện tại của chiếc xe. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết tiếp tục tạm giữ, xác minh làm rõ xử lý sau.

Ngày 15/12/2018, Đoàn Khánh N và Đoàn Tấn V đến gặp Lê Văn Atại khu phố Nhi Đồng 1, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và nhờ An làm giả chứng minh thư nhân dân và giấy phép lái xe. Do An bị đau chân nên đã nhờ đối tượng tên Quân (hiện không rõ nhân thân) làm giả các giấy tờ trên. Vì quá trình thực hiện hành vi làm giả các giấy tờ trên xảy ra trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã chuyển tin báo vụ án làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức cho Cơ quan điều tra – Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương để tiếp tục xác minh làm rõ đối tượng tên Quân và giải quyết vụ án theo thẩm quyền.

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKS-HS ngày 28/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố: Đoàn Khánh N và Đoàn Tấn V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a, khoản 3, Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết: Đề nghị HĐXX áp dụng:

+ Điểm a, khoản 3, Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, 56 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Đoàn Khánh N 9 – 11 năm tù. Tổng hợp hình phạt của bản án trước đối với bị cáo.

+ Điểm a, khoản 3 Điều 174; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Đoàn Tấn V 9 – 11 năm tù.

-Ý kiến của các bị cáo: các bị cáo xin HĐXX xem xét xử mức án nhẹ.

-Ý kiến của người bị hại: Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và truy tố, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về căn cứ buộc tội các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi của các bị cáo được nêu trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết là đúng thực tế. Nhận thấy lời khai của các bị cáo là phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ, đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở xác định:

Do cần tiền trả nợ nên Đoàn Khánh N đã bàn bạc với anh ruột là Đoàn Tấn V dùng thủ đoạn gian dối bằng cách làm chứng minh thư nhân dân và giấy phép lái xe giả để dùng các giấy tờ này thuê xe ô tô tự lái mang đi cầm thế hoặc bán lấy tiền. Sau khi bàn bạc xong, Nvà V đã đến nhờ Lê Văn Alàm giả các giấy tờ trên. An nhận lời nhưng không trực tiếp thực hiện mà nhờ đối tượng tên Quân (không xác định được nhân thân) làm cho N01 giấy chứng minh thư nhân dân và 01 giấy phép lái xe giả với giá 2.500.000.đ. Có được giấy tờ giả Nvà V đến thành phố Phan Thiết, V ở lại khách sạn còn Nmột mình đến gặp ông Đỗ Văn Ptại số nhà 451 Thủ Khoa Huân thuộc Kp13, phường Phú Thủy, thành phố Phan Thiết và sử dụng 01 giấy chứng minh thư nhân dân giả để làm hợp đồng thuê 01 chiếc xe ô tô hiệu TOYOTA – INNOVA biển số 86A – 017.06 trị giá 389.400.000 đồng của ông P. Sau đó Nvà V liên hệ với Nguyễn Văn An tìm người tiêu thụ. Trong lúc các đối tượng đang thỏa thuận với nhau về việc bán chiếc xe ô tô trên thì bị bắt giữ.

Hành vi dùng thủ đoạn gian dối, dùng giấy tờ giả thuê xe, với giá trị xe là 389.400.000đ rồi lấy xe đi đem bán nêu trên của các bị cáo đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a, khoản 3, Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đối với các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Trong vụ án, bị cáo Đoàn Khánh N là người khởi xướng việc phạm tội, nhưng khi thực hiện hành vi thì cả hai bị cáo cùng thực hiện tích cực. V liên hệ với các đối tượng để làm giả giấy tờ, sau khi có tài sản thì liên hệ để tiêu thụ. Nlà người được làm giả giấy tờ, trực tiếp liên hệ lừa thuê xe để lấy tài sản.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng vì muốn tư lợi bất chính nên đã thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần xử lý nghiêm để cải tạo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 11/8/2015, Đoàn Tấn V bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xử phạt 04 năm tù giam về tội Cướp giật tài sản là tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích nhưng đến ngày 19/12/2018 ,V tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, Đoàn Khánh N và Đoàn Tấn V đã thành khẩn khai báo, người bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho 2 bị cáo nên hai bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Đoàn Khánh N bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 21/2019/HSST, ngày 29/3/2019. Bản án số 21/2019/HSST trên xét xử đối với hành vi do bị cáo Nthực hiện từ năm 2014 (cùng vụ với bị cáo V) nhưng do bị cáo bỏ trốn nên mới bị xét xử sau. Hiện bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Thủ Đức (Z30D) – Bộ Công An. Do đó cần tổng hợp hai bản án, buộc bị cáo chấp hành chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: Người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì nên HĐXX không xét. Vật chứng là chiếc điện thoại bị cáo V dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Khánh N và bị cáo Đoàn Tấn V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

* Căn cứ vào: Điểm a, khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.

* Xử phạt: Bị cáo Đoàn Khánh N 08 (tám) năm tù, tổng hợp hình phạt 24 tháng tù của bản án số 21/2019/HSST ngày 29/3/2019 của TAND huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Buộc bị cáo chấp hành chung cho cả hai bản án là 10 (mười) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 20/12/2018.

* Căn cứ vào: Điểm a, khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

* Xử phạt: Bị cáo Đoàn Tấn V 08 (tám) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/4/2019.

*Biện pháp tư pháp:

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Viettel màu đen, số Imei1: 865961018220308, số Imei 2: 865961018220316 của bị cáo Đoàn Tấn V. Điện thoại trên có tại Chi cục Thi hành án dân sự tp Phan Thiết theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 111 ngày 31/5/2019.

* Áp dụng: Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nvà bị cáo V mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự phải tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/7/2019). Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêp yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

631
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/HSST ngày 10/07/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:79/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về