Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 79/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 31 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 221/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989 (có mặt)

Hộ khẩu: thôn T, xã Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Tạmtrú : số 39A/233, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

- Bị đơn: Anh Trương Hưng T, sinh năm 1988 (có mặt)

Hộ khẩu: Tổ 17, ấp T,xã L, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long.

Tạmtrú : số 39A/233, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 16/8/2019 của chị Nguyễn Thị H và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày:

Chị và anh T do quen biết tìm hiểu nhau từ năm 2014. Sau đó được sự đồng ý của gia đình đi đến hôn nhân có tổ chức hôn lễ theo phong tục tại địa phương. Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Lược, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long. Nữ trang cưới gồm: 05 chỉ vàng 18k, hiện nay chị đang quản lý, cất giữ. Vợ chồng có được hai người con là Trương Ngọc N, sinh ngày 03/6/2016 và Trương Ngọc C, sinh ngày 02/12/2018.

Sau khi cưới vợ chồng có tạm trú tại thành phố Cần Thơ. Chung sống hạnh phúc được khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Do thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường hay bất hòa, gây gổ đến mức trầm trọng. Vợ chồng cũng khuyên bảo nhau nhưng không hàn gắn được. Tháng 6 năm 2019 vợ chồng cãi nhau nên anh T đem theo con là Trương Ngọc N về quê chồng ở xã L, huyện BT để ở. Thời gian này mỗi người đều có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai. Vì vậy, chị mới làm đơn ly hôn anh T vào tháng 8/2019. Thời gian này anh T sinh sống tại quê ở huyện Bình Tân nên chị làm đơn tại Tòa án nhân dân huyện Bình Tân. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án thì đến đầu tháng 9/2019 anh T lại đưa con về chung sống tại Cần Thơ. Nay chị vẫn giữ yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Tân giải quyết những vấn đề như sau:

Chị yêu cầu được ly hôn với anh Trương Hưng T. Yêu cầu được nuôi hai con chung là Trương Ngọc N, sinh ngày 03/6/2016 và Trương Ngọc C, sinh ngày 02/12/2018. Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị làm nghề tài chính, thu nhập trung bình một tháng là 14.000.000 đồng nên đủ điều kiện nuôi con; Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết .

- Bị đơn anh Trương Hưng T trình bày: Qua lời trình bày của chị Nguyễn Thị H về thời gian kết hôn, về con chung, về tài sản và mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Thời gian H làm đơn ly hôn thì anh đem con lớn về ở tại nhà cha mẹ tại xã L, huyện BT. Đến đầu tháng 9/2019 anh về thành phố Cần Thơ nơi hai vợ chồng tạm trú. Nay anh đồng ý để Tòa án nhân dân huyện Bình Tân giải quyết vụ án.

Về hôn nhân: Anh không muốn ly hôn nhưng do H cương quyết đòi ly hôn nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của H; Anh yêu cầu được nuôi hai con chung là Trương Ngọc N, sinh ngày 03/6/2016 và Trương Ngọc C, sinh ngày 02/12/2018. Anh không yêu cầu H cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay anh làm nghề sửa chữa điện thoại, máy tính thu nhập trung bình một tháng là từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng nên đủ điều kiện nuôi con. Trong trường hợp phải ly hôn thì anh sẽ để H sống tại căn nhà đang thuê ở, còn anh làm nghề kinh doanh tự do; Về tài sản chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết để vợ chồng tự thỏa thuận.

Tại phiên tòa: Chị Nguyễn Thị H và anh Trương Hưng T vẫn giữ yêu cầu như trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Khi chị H làm đơn ly hôn anh T thì anh T có hộ khẩu và đang cư trú tại huyện Bình Tân nên Tòa án nhân dân huyện Bình Tân thụ lý giải quyết. Hiện nay chị H và anh T vẫn đồng ý để Tòa án nhân dân huyện Bình Tân giải quyết.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì chị Nguyễn Thị H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Tân giải quyết ly hôn với anh Trương Hưng T là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.

[2] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Trương Hưng T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Lược theo quy định Luật hôn nhân và gia đình nên hôn nhân giữa chị H và anh T là hợp pháp.

[3] Về mâu thuẫn: Chị H và anh T đều thừa nhận là vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường hay bất hòa, gây gổ đến mức trầm trọng. Nay chị H và anh T thấy mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên đồng ý thuận tình ly hôn nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị H và anh T có hai con là Trương Ngọc N, sinh ngày 03/6/2016 và Trương Ngọc C, sinh ngày 02/12/2018.

Nay chị H và anh T đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Theo quy định của pháp luật thì vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Hội đồng xét xử thấy hiện nay chị H và anh T đều muốn được nuôi con và có thu nhập ổn định. Tuy nhiên, thời điểm hiện nay các con của chị H và anh T còn nhỏ, cần có sự chăm sóc của người mẹ sẽ tốt hơn và đảm bảo về quyền lợi về mọi mặt của các con hơn. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H được trực tiếp nuôi hai con.

Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện của chị H nên được chấp nhận.

[5] Về tài sản chung: Chị H và anh T không tranh chấp nên không giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; đình;

Căn cứ vào các Điều 51, 55, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Trương Hưng T.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị H được trực tiếp nuôi hai con là Trương Ngọc N, sinh ngày 03/6/2016 và Trương Ngọc C, sinh ngày 02/12/2018, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng; chị Nguyễn Thị H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí, theo biên lai thu tiền số 0011144 ngày 04/9/2019 tại Chi cục thì hành án dân sự huyện Bình Tân nên được trừ qua, chị H không phải nộp án phí nữa.

5. Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai có mặt nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:79/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về