TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 79/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 45/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2019 về “Ly hôn và tranh chấp nuôi về con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 184/2019/QĐXX-ST ngày 19 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn:
Chị Lê Thị Cẩm T, sinh năm 1997.
Địa chỉ: 485, ấp 2, xã H, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
2.Bị đơn:
Anh Trần Văn L, sinh năm 1986.
Địa chỉ: Ấp L, xã P, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lí do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 15/02/2019, nguyên đơn trình bày:
Nguyên đơn và bị đơn tự nguyện cưới nhau từ tháng 02/2015 nhưng đến ngày 09/01/2017, cả hai mới đến Ủy ban nhân dân xã P, huyện Giồng Trôm để đăng ký kết hôn. Trong thời gian sau khi kết hôn, từ tháng 02/2015 cho đến tháng 5/2017, vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc và có một con chung là cháu Trần Thị Bích T1. Sau thời gian hạnh phúc, kể từ tháng 5/2017, vợ chồng thường gây gổ, cải vả nhau. Về phía cha mẹ chồng thì khó khăn, kiếm chuyện đuổi nguyên đơn ra khỏi nhà. Đến tháng 7/2018, bị đơn gây gổ với nguyên đơn, đuổi nguyên đơn ra khỏi nhà, nguyên đơn quay về nhà cha mẹ ruột ở xã H, huyện Giồng Trôm sinh sống và ly thân với bị đơn cho đến nay, trong thời gian này, bị đơn cũng không có biểu hiện gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng vì vậy nguyên đơn yêu cầu Tòa án quyết cho nguyên đơn ly hôn với bị đơn.
Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung là cháu Trần Thị Bích T1, sinh ngày 30/01/2017. Cháu hiện vẫn sống chung với bị đơn, sau khi ly hôn, nguyên đơn giao con chung cho bị đơn nuôi, nguyên đơn không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung.
Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.
Bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không có lời trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơn vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là đúng qui định.
Bị đơn trong vụ án vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.
Về nội dung vụ án:
Nguyên đơn và bị đơn tự nguyện sống chung vào tháng 02/2015, cả hai có đăng ký kết hôn ngày 09/01/2017 tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Giồng Trôm vì vậy hôn nhân của cả hai là hợp pháp được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Theo nguyên đơn trình bày, trong thời gian sau khi kết hôn, từ tháng 02/2015 cho đến tháng 5/2017, vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc tuy nhiên kể từ tháng 5/2017, vợ chồng thường gây gổ, cải vả nhau. Về phía cha mẹ chồng thì khó khăn, kiếm chuyện đuổi nguyên đơn ra khỏi nhà. Đến tháng 7/2018, bị đơn gây gổ với nguyên đơn, đuổi nguyên đơn ra khỏi nhà, nguyên đơn quay về nhà cha mẹ ruột ở xã Hưng Nhượng, huyện Giồng Trôm sinh sống và ly thân với bị đơn cho đến nay. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo hợp lệ các phiên hòa giải với mục đích là hòa giải, động viên nhằm hàn gắn tình cảm, quan hệ vợ chồng cho hai người tuy nhiên bị đơn đã không tham gia mà không có lí do chính đáng xem như đã từ bỏ nghĩa vụ chứng minh quan hệ vợ chồng giữa bị đơn và nguyên đơn là không có mâu thuẩn, hôn nhân vẫn còn hạnh phúc.
Từ những phân tích, đánh giá như trên, Hội đồng xét xử nhận định bị đơn dù biết ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân nhưng bị đơn đã bỏ mặc cho nguyên đơn tự giải quyết, không cùng nguyên đơn có các biện pháp tích cực nhằm cải thiện tình trạng hôn nhân của cả hai để kéo dài mối quan hệ hôn nhân. Như vậy tình trạng hôn nhân của cả hai đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cần thiết phải chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cho nguyên đơn được ly hôn với bị đơn.
Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung là cháu Trần Thị Bích T1, sinh ngày 30/01/2017, cháu hiện vẫn sống chung với bị đơn, sau khi ly hôn, nguyên đơn giao con chung cho bị đơn nuôi. Xét việc giao con chung cho ai tiếp tục nuôi dưỡng là phải nhằm để ổn định môi trường sống, tâm lý của con chung, hiện con chung đang sống với bị đơn, qua làm việc cha ruột bị đơn cùng gia đình cũng đồng ý nhận nuôi cháu Trâm vì vậy Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Trần Thị Bích T1 cho bị đơn tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.
Đối với việc cấp dưỡng, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày không có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, bị đơn không đến Tòa án trình bày ý kiến để yêu cầu về việc cấp dưỡng cho con vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung: Nguyên đơn trình bày không có vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nợ chung: Nguyên đơn trình bày không có vì vậy Hội đồng xét xử không xem Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải có nghĩa vụ chịu số tiền 300.000đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 0000227 ngày 21/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”. Cụ thể tuyên:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Lê Thị Cẩm T, cho chị Lê Thị Cẩm T được ly hôn với anh Trần Văn L.
2. Về con chung:
Anh Trần Văn L có quyền, nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Trần Thị Bích T1, sinh ngày 30/01/2017.
Chị Lê Thị Cẩm T không có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Chị Lê Thị Cẩm T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc cấp dưỡng cho con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không có.
4. Về nợ chung: Không có.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Cẩm T phải có nghĩa vụ chịu số tiền 300.000đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 0000227 ngày 21/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.
Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 79/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về