Bản án 79/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 79/2018/HS-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2018/HSST ngày 05 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung M, sinh năm 1983, tại tỉnh Tây Ninh.

Nơi cư trú: ấp Thanh A, xã A B, huyện CT, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Huỳnh Thị S; có vợ là Trần Thị Hồng N (đã ly hôn) và 01 người con; tiền án không, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 07-9-2018, tạm giam ngày 10-9-2018. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ, ngày 07-9-2018, Công an huyện Châu Thành phối hợp với Công an xã An Bình, huyện Châu Thành bắt quả tang Nguyễn Trung M đang cất giấu trong túi quần bên trái phía trước 01 đoạn ống hút bên trong có chứa chất ma túy dạng đá và thu giữ nhiều vật chứng khác.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Trung M tại nhà thuộc ấp Thanh A, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh thì phát hiện 02 bịch nylon bên trong có chứa chất Cần sa và 01 bịch nylon bên trong có chứa chất ma túy dạng đá. M khai số Cần sa trên do M xin của một người đàn ông tên Chét (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực chợ Hòa B với mục đích về cho gà ăn, còn bịch ma túy M mua của Cường vào ngày 05-9-2018 để về sử dụng.

Trong quá trình điều tra, M khai nhận đã mua ma túy của một người tên Cường (không rõ nhân thân, lai lịch) ở xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh với giá 600.000 đồng vào ngày 05-9-2018 và mang về cất giấu ở sau vườn nhà để sử dụng dần. Khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 07-9-2018, M lấy bịch ma túy đã cất giấu trước đó đổ vào đoạn ống hút một ít rồi cất giấu đoạn ống hút có chứa chất ma túy này vào túi quần bên trái phía trước, bịch ma túy còn lại thì cất giấu vào vị trí cũ. Sau đó, M điều khiển xe mô tô biển số 70D1-433.72 của gia đình đi từ nhà đến Trạm y tế phường 4, thành phố Tây Ninh để tham gia uống Methadol điều trị thay thế. Trên đường đi đến quán cà phê Thảo My thuộc ấp Thanh A, xã A B, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh thì bị lực lượng Công A huyện Châu Thành kiểm tra bắt quả tang.

Trong quá trình điều tra, Nguyễn Trung M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám số: 1166/KL-KTHS ngày 11-9-2018 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công A tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 đoạn ống hút được hàn kín hai đầu (ký hiệu M1) và bên trong 01 gói nhựa (ký hiệu M3) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng lần lượt là 0,2084 gam và 0,4419 gam. Mẫu cỏ khô bên trong 02 gói nhựa (ký hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Cần sa, có khối lượng là 0,8281 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 75/QĐ-KSĐT ngày 02 tháng 11 năm 2018, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh trên đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trung M từ 18 đến 24 tháng tù.

Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Đối với người tên Cường bán ma túy cho M, không rõ nhân thân, lai lịch nên không làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Bị cáo M tự bào chữa: Bị cáo thống nhất với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến gì bào chữa cho mình.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và có cơ hội sớm làm một công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về thủ tục tố tụng: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công A huyện Châu Thành, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

 [2] Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Trung M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo đúng nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Trung M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo M là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Việc tàng trữ các chất ma túy gây ra nhiều hậu quả xấu cho xã hội được pháp luật hình sự điều chỉnh nên bị cáo M phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi phạm tội của mình. Bị cáo M nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện nên cần thiết xử phạt bị cáo một mức án tương xứng, cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt, nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

 [3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối bị cáo.

Bị cáo M không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo M không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [4] Về vật chứng: Căn cứ các Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xử lý vật chứng như sau:

- 03 gói niêm phong ghi số vụ: 1166/KL-KTHS (gói 1, gói 2, gói 3), có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công A tỉnh Tây Ninh và chữ ký xác nhận của giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và trợ lý giám định Nguyễn Thị Thùy Linh. Kết quả giám định của các gói niêm phong này có chứa thành phần Methamphetamine; 01 đoạn ống hút nhựa dài 05 cm, một đầu bằng, một đầu nhọn; 03 bịch nylon được hàn kín, rỗng bên trong; 01 bật lữa có chữ Hoa Việt; 01 chai kim loại bên ngoài có chữ ARIUIHUA. Đây là các vật chứng, phương tiện, công cụ liên quA đến việc phạm tội nhưng không có giá trị sử dụng và cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Tiền Việt Nam: 300.000 (ba trăm nghìn) đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202  màu  xAh, số  Imei:  356623/02/926863/7;  01  điện  thoại  di  động  hiệu Samsung J5, màu đen, số Imei: 352700/07/045342/7, 352701/07/045342/5; 01 giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Trung M. Đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo M nhưng được tạm giữ để bảo đảm cho việc thi hành án.

- Đối với xe mô tô biển số 70D1-433.72, giấy đăng ký xe mô tô mang tên Huỳnh Thị Se, sinh năm 1962. Đây là xe mô tô của gia đình bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công A huyện Châu Thành đã trả lại cho chủ sở hữu nên không xử lý.

 [5] Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đối với người tên Cường bán ma túy cho bị cáo M nhưng không rõ nhân thân lai lịch nên không làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1  Điều 51 Bộ luật hình sự;

1.  Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trung M 18 (Mười tám) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 07-9-2018 (ngày tạm giữ).

Bị cáo M không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2.  Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 03 gói niêm phong ghi số vụ: 1166/KL-KTHS (gói 1, gói 2, gói 3), có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công A tỉnh Tây Ninh và chữ ký xác nhận của giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và trợ lý giám định Nguyễn Thị Thùy Linh; 01 đoạn ống hút nhựa dài 05 cm, một đầu bằng, một đầu nhọn; 03 bịch nylon được hàn kín, rỗng bên trong; 01 bật lữa có chữ Hoa Việt; 01 chai kim loại bên ngoài có chữ ARIUIHUA.

- Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Trung M các tài sản để bảo đảm thi hành án: tiền Việt Nam: 300.000 (ba trăm nghìn) đồng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202 màu xanh, số Imei: 356623/02/926863/7; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J5, màu đen, số Imei: 352700/07/045342/7, 352701/07/045342/5; 01 giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Trung M.

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy bA thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo M phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về