TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 78/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 09 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 129/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hữu S, sinh năm: 1982. Địa chỉ: Ấp 6, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1984. Địa chỉ: Ấp 6, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre. Tại phiên tòa, anh S, chị H vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản khai, đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nguyên đơn là anh Nguyễn Hữu S trình bày:
Anh và chị H chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G vào ngày 30/10/2006. Hôn nhân là do tự nguyện. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2016, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, chị H bỏ đi làm nên anh chị đã không chung sống đến nay đã 05 năm. Nay anh S yêu cầu ly hôn với chị H.
Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Minh Khoa, sinh ngày 23/5/2007 hiện đang sống với anh S. Anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do bận công việc nên anh không thể trực tiếp tham gia phiên tòa. Vì vậy, anh có yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt anh với các yêu cầu như trên.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã thông báo và tổ chức các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng chị H đều vắng mặt không lý do.
Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:
Chị và anh S tự nguyện tìm hiểu, có làm đám cưới, đăng ký kết hôn năm 2006 tại Ủy ban nhân dân thị trấn G. Sau khi cưới nhau, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 vợ chồng có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không hợp nhau. Anh chị đã ly thân nay khoảng 05 năm. Nay anh S yêu cầu ly hôn thì chị cũng đồng ý.
Về con chung: Chị và anh S có 01 con chung tên Nguyễn Minh Khoa, sinh ngày 23/5/2007 hiện đang sống với anh S. Chị đồng ý giao con cho anh S nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị và anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Chị đã nhận được bản photo hồ sơ khởi kiện của nguyên đơn gửi cho chị và các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng do chị làm ăn ở xa không thể về Tòa án nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Chị cam kết không khiếu nại về sau.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu ý kiến:
* Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:
Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Hữu S về việc xin ly hôn với chị Nguyễn Thị H, anh S được ly hôn với chị H.
- Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Minh Khoa, sinh ngày 23/5/2007 cho anh S được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên, ghi nhận anh S không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Anh S và chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Nguyên đơn là anh Nguyễn Hữu S khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre giải quyết ly hôn với bị đơn là chị Nguyễn Thị H. Chị H hiện đang cư trú tại ấp 6, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Anh S, chị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố Tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh S, chị H.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Hữu S và chị Nguyễn Thị H tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân anh chị là hợp pháp, được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Cả anh S và chị H đều thừa nhận trong thời gian chung sống, anh và chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không hợp nhau, hay cự cãi nên hai người không còn sống chung với nhau đến nay hơn 05 năm. Nay anh S xin ly hôn thì chị H cũng đồng ý. Tòa án đã tiến hành xác minh tại nơi cư trú anh S và chị H, được biết: Trong cuộc sống vợ chồng, anh S và chị H không gây gỗ, đánh nhau đến mức chính quyền địa pH can thiệp. Do đó, chính quyền địa pH cũng không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là gì. Anh S và chị H không còn sống chung nhau trên 4 năm. Ngoài ra, qua trao đổi với mẹ ruột chị H, được biết: Vợ chồng chị H xảy ra lục đục, chị H và anh S đã không sống chung nhau từ lâu, chị H cũng không muốn quay lại anh S, mỗi người đã có cuộc sống riêng nên Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật để giải quyết vụ án.
Sau khi thụ lý yêu cầu khởi kiện của anh S, Tòa án đã 02 lần mở phiên hòa giải, mục đích cho vợ chồng đoàn tụ nhưng chị H không đến tham gia, anh S lại cương quyết ly hôn, không muốn đoàn tụ với chị H. Sau đó, chị H có ý kiến bằng văn bản đồng ý ly hôn anh S.
Như vậy, tình trạng hôn nhân của anh S và chị H đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của anh S và chị H và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm là có căn cứ chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Anh H và chị H sống với nhau có 01 con chung là Nguyễn Minh Khoa, sinh ngày 23/5/2007, đang sống chung với anh S. Để đảm bảo S ổn định trong cuộc sống của con, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con cho anh S được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của con - được sống với cha sau khi cha mẹ ly hôn.
Theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình thì sau khi ly hôn “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” nhưng anh S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Nếu sau này, anh S có yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con thì sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
[2.3] Về tài sản chung: Anh S, chị H không tranh chấp, không yêu cầu nên gì Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này chị H, anh S có tranh chấp về tài sản chung thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
[2.4] Về nợ chung: Anh S, chị H khai không có nợ chung, không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[2.5] Về án phí: Anh S phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án dân S sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, Điều 147, Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Hữu S. Anh Nguyễn Hữu S được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.
2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Minh Khoa, sinh ngày 23/5/2007 cho anh Nguyễn Hữu S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi. Ghi nhận anh S không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con. Chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản chung: Anh S, chị H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này anh S, chị H có tranh chấp về tài sản chung thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
4. Về nợ chung: Anh S, chị H khai không có nợ chung, không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
5. Về án phí: Anh Nguyễn Hữu S phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân swj sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000364 ngày 07 tháng 4 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm. Anh S đã nộp đủ án phí.
6. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.
Bản án 78/2021/HNGĐ-ST ngày 09/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 78/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về