TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 78/2020/HSST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 73/2020/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2020/QĐXXST-HS ngày 11/9/2020 đối với bị cáo: Nguyễn Văn V; Tên gọi khác: C; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 29/8/1993, tại: Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố B, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: lớp 10/12; nghề nghiệp: Không có; con ông: Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Thục U; Hiện đều trú tại Khu phố B, Phường M, thành phố Đ, Quảng Trị; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Hoàng Thị Bích T, sinh năm 1993 (đã ly hôn), có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền sự: Không có; 01 Tiền án: Tại Bản án số 102/2015/HSST ngày 24/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt Nguyễn Văn V 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Hiện Nguyễn Văn V đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/3/2017 nhưng chưa thi hành án tiền án phí và trách nhiệm bồi thường dân sự.
Nhân thân: Ngày 27/10/2015, Công an thành phố Đông Hà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Nguyễn Văn V về hành vi “Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo chưa thi hành nhưng đã hết thời hiệu.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/6/2020 tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Quảng Trị đến nay, có mặt.
Bị hại:
- Anh Hoàng Kim H, sinh ngày 04/7/1993; địa chỉ: xã L, huyện H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt;
- Anh Lê Văn Anh T, sinh ngày 27/7/1992; địa chỉ: Khu phố H, phường L, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Văn N, sinh ngày 04/02/1995, địa chỉ: Khu phố C, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
- Anh Huỳnh Thanh P, sinh ngày 10/11/1983, địa chỉ: Khu phố B, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
- Bà Hoàng Thị Thục U, sinh ngày 29/4/1972, địa chỉ: Khu phố B, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn V có mối quan hệ quen biết với anh Hoàng Kim H và anh Lê Văn Anh T. Do cần tiền để tiêu xài cá nhân nên từ ngày 06/3/2020 đến ngày 12/3/2020, Nguyễn Văn V đã 02 lần dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của anh Hvà anh Tuấn, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ 30 ngày 06/3/2020, Nguyễn Văn V đến phòng trọ của anh Hoàng Kim H ở số 03 đường Lê Ngọc Hân, thuộc khu phố 10, phường 5, thành phố Đông Hà thì thấy xe mô tô hiệu Yamaha NVX biển kiểm soát (BKS):
74F1-258.28 của anh H để tại phòng trọ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. V nói dối anh H cho V mượn xe đi có việc một lúc rồi quay lại. Tưởng thật nên anh H đồng ý và giao xe mô tô BKS: 74F1-258.28 cho V. Sau khi nhận xe, V điều khiển xe đến bán cho anh Nguyễn Văn N; trú tại Khu phố C, Phường N, thành phố Đ với giá 12.000.000 đồng. Số tiền trên V đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 13/4/2020, thấy Nguyễn Văn V không trả lại xe nên anh Hoàng Kim H đã tố giác tội phạm tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà.
Vụ thứ hai: Khoảng 19 giờ ngày 12/3/2020, V đến quán Internet SH tại đường Nguyễn Trãi, thuộc Khu phố 8, Phường 1, thành phố Đông Hà, gặp anh Lê Văn Anh T; trú tại Khu phố H, phường L, thành phố Đ. Thấy anh Tcó 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX gắn BKS 74F1-065.22 để tại quán Internet nên V nảy sinh ý định chiếm đoạt. V nói dối anh T cho V mượn xe để đi mua bánh mì một lúc rồi quay lại. Tưởng thật nên anh T đồng ý và giao xe mô tô BKS 74F1-065.22 cho V.
Sau khi nhận xe, V điều khiển đến gặp anh Huỳnh Thanh P, trú tại Khu phố B, Phường H, thành phố Đ mượn 2.000.000 đồng rồi để xe mô tô lại làm tin. Số tiền trên, V đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 22/4/2020, do Nguyễn Văn V không trả xe nên anh Lê Văn Anh T đã tố giác tội phạm tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà.
Bản kết luận định giá tài sản số 52/KLĐGTS ngày 03/06/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá của xe mô tô hiệu Yamaha NVX BKS: 74F1-258.28 (xe anh Hồng) là 30.000.000 đồng.
Bản kết luận định giá tài sản số 54/KLĐGTS ngày 27/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá của xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX gắn BKS 74F1-065.22 (xe anh Tuấn)là 4.500.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Văn V chiếm đoạt là 34.500.000 đồng.
Vật chứng và tài sản thu giữ:
+ 01 xe mô tô hiệu Yamaha NVX BKS: 74F1-258.28;
+ 01 giấy mua bán xe Yamaha NVX BKS: 74F1-258.28 ngày 06/3/2020 đã chuyển vào hồ sơ vụ án;
+ 01 giấy đăng ký xe mô tô Yamaha NVX BKS: 74F1-258.28 mang tên Hoàng Kim H.
+ 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX gắn BKS 74F1-065.22.
Tại bản Cáo trạng số 79/CT-VKS-ĐH ngày 28 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn V (tên gọi khác: C) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 174; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V (tên gọi khác: C) từ 24 đến 30 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Không ai có yêu cầu gì nên không xem xét.
Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là hoàn toàn sai trái, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng đã có đủ cơ sở kết luận:Trong thời gian từ ngày 06/3/2020 đến 12/3/2020, Nguyễn Văn V đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản là 02 xe mô tô của anh Hoàng Kim H và anh Lê Văn Anh T. Tài sản Nguyễn Văn V chiếm đoạt được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận có giá trị 34.500.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn V đã đủ yếu tố cấu thành tội "“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" , quy định tại Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà truy tố bị cáo về tội "“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", quy định tại Khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
Điều luật quy định khung hình phạt: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 03 năm.
[3] Xét về tính chất hành vi của bị cáo: Bị cáo là một thanh niên có sức khỏe nhưng lười lao động, thích hưởng thụ. Bị cáo đã bị Tòa án xét xử về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và là người có nhân thân xấu, đã bị Công an thành phố Đông Hà xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà sau khi ra tù lại tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an trên địa bàn. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm minh với hình phạt tù có thời hạn nhằm răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
+ Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu 02 tình tiết tăng nặng: Phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm quy định tại Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
+ Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, mẹ bị cáo đã dùng số tiền trong gia đình để trả cho anh Nguyễn Văn N và anh Huỳnh Thanh P nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự để một giảm phần hình phạt cho bị cáo.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải ban hành quyết định tạm giam để đảm bảo thi hành án.
[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra mẹ của bị cáo là bà Hoàng Thị Thục U đã trả cho anh Nguyễn Văn N 12.000.000 đồng, anh Huỳnh Thanh P 2.000.000 đồng. Nay, bà Uyên không có yêu cầu gì nên không xem xét.
Giấy mua bán xe là tài liệu liên quan đến vụ án nên lưu giữ trong hồ sơ.
Ngày 03/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô hiệu Yamaha NVX BKS: 74F1-258.28 và giấy đăng ký xe cho chủ sở hữu là anh Hoàng Kim H, không có yêu cầu gì nên không xem xét.
Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo LX, quá trình điều tra đã xác định chủ sở hữu và trả lại cho chủ sở hữu là anh Phạm Trần Ngọc Th, không ai có yêu cầu gì nên không xem xét.
Anh Lê Văn Anh T không yêu cầu gì đối với bị cáo, nên không xem xét.
Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" .
Căn cứ Khoản 1 Điều 174; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g, h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn V: 27(Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 08/6/2020.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.
Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.
Bản án 78/2020/HSST ngày 23/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 78/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về