Bản án 78/2020/HSST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 78/2020/HSST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện TC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2020/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Lò Văn L ; tên gọi khác: Không; sinh năm 1988 tại huyện TC, tỉnh SL; nơi cư trú: Bản D, xã TL, huyên TC, tỉnh SL; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Thái; giới tính : Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch : Việt Nam ; con ông Lò Văn T (sinh năm 1961) và bà Quàng Thị H (sinh năm 1964); có vợ là Quàng Thị T (sinh năm 1990) và có 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2014, bị Tòa án nhân dân huyện T C xử phạt 24 (hai mươi tư ) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xoá án tích ); Ngày 19/4/2018, bị Công an huyện T C xử phạt vi pham hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với hình thức phạt tiền là 750.000 đồng (đã được xóa tiền sự); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2020 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 20/4/2020, Tổ công tác Công an xã TL, huyện TC đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản D, xã TL, huyện TC phát hiện, bắt quả tang Lò Văn L có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm:

Môt gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng (L khai là Heroine)- L cất giữ trong túi quần phía trước bên phải đang mắc trên người.

Hồi 17 giờ 30 phút, ngày 20/4/2020 tại phòng PC 09 Công an tỉnh SL, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện TC đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định, kết quả xác định số bột cục màu trắng có khối lượng 0,14 gam (không phẩy mươi bốn gam). Trích toàn bộ 0,14 gam chất bột trắng trên để giám định ký hiệu L1 làm mẫu gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 645 ngày 24/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,14 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,14 gam; loại Heroi ne. Hoàn lại đối tượng giám định : Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L 1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,07 gam”.

Quá trình điều tra bị cáo Lò Văn L khai nhân : Khoảng 11 giờ, ngày 20/4/2020, L đi bô một mình từ nhà ở bản D, xã TL, huyện T C, tỉnh SL đến xã TM, huyện TC tìm mua ma túy để sử dụng . Khi đến bản T, xã TM, L gặp và hỏi mua ma túy cuả một người nam thanh niên dân tộc Thái (L không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ) đang đứng ven đường được một it Heroine gói bằng nilon màu trắng với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy , L cất gói ma túy vào túi quần dài phía trước bên phải đang mặc rồi đi bộ về nhà . Khi L đi đến khu vực bản D, xã TL thì bị Tổ công tác Công an xã TL phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại bản cáo trạng số: 84/CT-VKS ngày 22/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC đã truy tố Lò Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, Lò Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 20 đến 26 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ Luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu + 0,07 gam chất ma túy, loại Heroine.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Lò Văn L thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC, tỉnh SL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 20/4/2020 Lò Văn L đã có hành vi cất giữ trái phép 0,14 gam chất ma túy , loại Heroine trong người với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản D, xã TL, huyện TC.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo phù hợp với:

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 14 giờ 00 phút ngày 20/4/2020; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại ngày 20/4/2020; Kết luận giám định số 645 ngày 24/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh SL.

[3] Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,14 gam chất ma túy, loại chất Heroine trong người với mục đích để sử dụng của Lò Văn L đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo , trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo 01 tiền án (đã được xoá án tích ) và 01 tiền sự (đã được xoá tiền sự).

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy đjnh tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Lò Văn L khai mua của môt nam thanh niên dân tộc Thái gặp ở bản T, xã TM, huyện T C vào ngày 20/4/2020. Quá trình điều tra xác đinh L không biết họ tên , tuổi, địa chỉ cụ thể cuả người thanh niên đã bán ma túy cho L. Do đó, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với vật chứng là 0,07 gam chất ma túy , loại Heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ , lưu hành; 01 mảnh nilon màu trắng+ 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, là công cu bị cáo dùng vào việc phạm tội và vật không có giá trị sử dụng do đó cần tịch thu tiêu hủy, căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lò Văn L phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thâm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn L 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 20/4/2020).

Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:

Một phong bì thư niêm phong , dán kín , mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn L – Tàng trữ trái phép chất ma túy , bắt ngày 20/4/2020. 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Một phong bì bằng giấy trắng niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL, mặt trước ghi : vật chứng vụ : Lò Văn L – Tàng trữ trái phép chất ma túy , xảy ra ngày 20/4/2020. Tại xã TL, huyên T C, tỉnh SL. Tại: Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL. Gồm có: Phong bì niêm phong mẫu giám định đã bóc mở + chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L1, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,07 gam.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện TC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TC).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lò Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghin đông).

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2020/HSST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:78/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về