Bản án 78/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Đ - THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 78/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, hồi 14 giờ 30 phút ngày 23 tháng 04 năm 2019 tại Toà án nhân dân quận Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 75/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 04 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

TẠ ĐỨC H; Sinh ngày 01/05/1996 tại N; HKTT và trú tại: Xóm 9, xã K, huyện Y, tỉnh N; Nghề Nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt nam; con ông Tạ Duy H và bà Đỗ Thị Đ; tiền án, tiền sự: không; Danh chỉ bản số 111 lập ngày 28/12/2018 tại Công an quận Đ, thành phố H ; Bị cáo bắt truy nã ngày 27/12/2018 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 H có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm: 1993; Địa chỉ: Số 2 ngõ 302 đường L, phường T, quận Đ, thành phố H. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 14/3/2018 Tạ Đức H đi xe máy nhãn hiệu Dream đến nhà trọ anh Nguyễn Mạnh T tại số 2 ngõ 302 đường Láng, Thịnh Quang, quận Đ,thành phố H uống rượu rồi ngủ lại nhà T. Đến khoảng hơn 09 giờ cùng ngày H tỉnh dậy đi xuống tầng một phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piagio Liberty màu đỏ BKS: 21B1-540.15 của anh T đang dựng ở gần cầu thang lên tầng hai của phòng trọ, chìa khóa chiếc xe này để trên bàn tầng hai của phòng trọ T, Nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên, H quay lên tầng hai lấy chìa khóa xe, xuống mở khóa rồi điều khiển xe ra một quán gửi xe cách đó khoảng 300m. Sau đó, H quay lại nhà trọ T lấy chiếc xe Honda Dream của mình đi đến mang đi trả cho ông Tạ Văn D rồi bắt xe ôm quay lại chỗ gửi xe lấy chiếc xe Piaggio Liberty vừa trộm cắp được đi về thành phố N. Khi về đến thành phố N, tỉnh N thì H đã gọi điện cho một người bạn xã hội tên “C” (H không biết tên thật, địa chỉ của “C” ở đâu) nhờ C đi cầm cố xe được 12.000.000 đồng. Sau khi cầm được xe H đưa cho “C” 2.000.000 đồng và giữ lại 10.000.000 đồng tiêu xài hết. Sau khi phát hiện bị mất tài sản ngày 16/3/2018 anh T đã đến cơ quan công an trình báo.

Ngày 21/4/2018 bà Đỗ Thị Đ là mẹ của Tạ Đức H đến công an phường Thịnh Quang để giao nộp chiếc xe máy Piagio Liberty màu đỏ BKS: 21B1-540.15 của con mình trộm cắp. Tại cơ quan công an bà Đ trình bày: khi T gọi điện nói với bà về việc H đã trộm xe của anh T. Bà Đ đã gặp H để hỏi rõ sự việc, H đã thú nhận là do túng quẫn tiền bạc đã lấy trộm chiếc xe trên của T rồi mang đi cầm có cho một người tên là C ở khu vực thành phố Ninh B với giá 12.000.000 đồng. Bà Đ đã cùng H đến khu vực gần thành phố N để chuộc chiếc xe trên. Sau đó, bà Đ đã mang xe đến cơ quan công an giao nộp.

Tang vật của vụ án là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piagio Liberty màu đỏ BKS: 21B1-540.15 đã được thu hồi.

Kết luận định giá số 258/ĐGTS ngày 25/6/2018 của Hội Đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Đ kết luận: Trị giá chiếc xe nhãn hiệu Liberty màu đỏ, BKS: 21B!-540.15 là 50.281.000 (năm mươi triệu, hai trăm tám mươi một nghìn) đồng.

Tại bản cáo trạng số 87/CT-VKS ngày 03/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận Đ truy tố Tạ Đức H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là phạm tội và ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi phân tích đánh giá tính chất mức độ phạm tội của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ: điểm c khoản 2 điều 173, điểm b, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Tạ Đức H từ 26 đến 30 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo xuất trình các tài liệu, chứng cứ phù hợp quy định pháp luật, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu; Bản kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự... có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 09 giờ 35’ ngày 14/3/2018, tại tầng 1 nhà số 2 ngõ 302 đường L, phường T, quận Đ, thành phố H. Tạ Đức H có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piagio Liberty BKS: 21B1-540.15 trị giá 50.281.000 đồng của anh Nguyễn Mạnh T (sinh năm: 1993; Địa chỉ: Số 2 ngõ 302 đường L, phường T, quận Đ, thành phố H ).

Hành vi của bị cáo Tạ Đức H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, thành phố H truy tố là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an địa phương. Vì vậy, cần phải ra một bản án nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã.

Tình tiết giảm nhẹ: bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã bỏ tiền ra chuộc lại tài sản để trả cho bị hại, bị cáo lần đầu bị đưa ra xét xử là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về những vấn đề khác: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 136, điều 331, điều 333- Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên không xét.

Đối với đối tượng tên “C” là người đi cầm cố xe cho H do Cơ quan điều tra chưa có đủ căn cứ để xác minh, làm rõ hành vi vi phạm. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách phần tài liệu liên quan đến hành vi của “C ” để điều tra làm rõ sau nên Hội đồng xét xử không xét.

Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc mô tô Piagio Liberty BKS: 21B1-540.15, qua điều tra xác định chủ sở hữu là của anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm: 1993; Địa chỉ: Số 2 ngõ 302 đường L, phường T, quận Đ, thành phố H. Ngày 05/10/2018 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh T là đúng quy định pháp luật.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Bị hại được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Từ lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Tạ Đức H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: điểm c Khoản 2 điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Tạ Đức H 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/12/2018.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 136, điều 331, điều 333- Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:78/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về