Bản án 78/2019/HS-PT ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 78/2019/HS-PT NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 107/2019/TLPT-HS ngày 16/8/2019 đối với bị cáo Đỗ Công Tr, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2019/HS-ST ngày 17/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Bị cáo kháng cáo:

Đỗ Công Tr, tên gọi khác: Đỏ; sinh ngày 20 tháng 02 năm 1998 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: 62B An Tôn, phường 5, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: thợ sơn nước; trình độ học vấn: lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Tấn T, sinh năm 1974 và bà Dương Thị Y, sinh năm 1972; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/12/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ. Có mặt.

Trong vụ án này còn có bị cáo Vũ Thị N không có kháng cáo, vụ án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Thị Ý N là người sử dụng và nghiện chất ma túy từ cuối năm 2017. Vào khoảng 19 giờ một ngày đầu tháng 12/2018, Vũ Thị Ý N đang đi dạo tại Công viên Yersin, phường 10, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng thì gặp một thanh niên không quen biết bắt chuyện và sau đó rủ N cùng sử dụng ma túy, N từ chối không sử dụng nhưng có xin ma túy của người thanh niên này để về sử dụng sau thì thanh niên này đồng ý và đưa cho N 03 gói nilon hàn kín, bên trong đựng ma túy đá. Sau khi có ma túy, N cất giấu vào trong túi quần đang mặc với mục đích để sử dụng dần. Khoảng 20 giờ ngày 07/12/2018, N đến Quán cà phê Kết Nối ở đường H, phường 6, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng thì gặp và mua của một người tên A (không biết lai lịch, địa chỉ) 3.000.000đ ma túy để sử dụng. Sau khi mua đuợc ma túy của A, N đem số ma túy này về nhà trọ tại đuờng Đ, phuờng 4, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng cất giấu với mục đích để sử dụng dần.

Đến khoảng 07 giờ 30 ngày 08/12/2018, N đến phòng trọ số H.201của Đỗ Công Tr, ở cùng khu nhà trọ với N, đưa cho Tr 08 gói ma túy mà N đã mua của đối tuợng tên A ngày 07/12/2018 (gồm 01 gói lớn và 07 gói nhỏ), nhờ Tr cất giữ để sau này cùng sử dụng chung thì Tr đồng ý. Đến khoảng 18 giờ ngày 11/12/2018, N quay lại phòng trọ của Tr thì không gặp Tr mà ở đây có Nguyễn Vũ Tuấn Ng và Đặng Lâm V, là bạn của Tr đang ở tại phòng trọ của Tr. Tại đây, N dùng điện thoại gắn sim số 0327.517.321 để hỏi Tr nơi cất giấu ma túy thì Tr nhắn tin lại cho N, nói rằng Tr đang cất ở tủ quần áo trong phòng trọ. N mở tủ quần áo thì thấy 08 gói ma túy mà N đưa cho Tr giữ hộ được bỏ trong 01 hộp giấy, loại hộp đựng điện thoại Iphone, N lấy một ít ma túy từ một gói nilon, bỏ vào trong nõ thủy tinh để sẵn trong phòng phía sau giường ngủ, rồi đặt nõ lên chiếc bàn nhỏ để trên giường. Khoảng 05 phút sau Tr về và cùng Ng, N, V đi ăn tối. Đến 22 giờ cùng ngày, sau khi ăn tối, cả 4 người về lại phòng trọ của Tr để cùng nhau sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng, Như nói Tr tiếp tục cất giữ giúp N 08 gói ma túy còn lại đựng trong chiếc hộp giấy đang để trên giường rồi N về lại phòng trọ của mình để ngủ. Đến sáng ngày 12/12/2018, sau khi Ng và V đi ra khỏi phòng thì Tr đem chiếc hộp giấy đựng ma túy mà N gửi, cất trên nóc tủ lạnh trong phòng. Khoảng 10 giờ 30 cùng ngày, khi Tr, Ng và V đang ở tại phòng trọ của Tr thì Công an thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng tiến hành kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Đỗ Công Tr đang cất giấu 08 gói nilon, bên trong đựng chất ở dạng tinh thể màu trắng nói trên. Đến 12 giờ 15 cùng ngày, Vũ Thị Ý N trở lại phòng trọ của Tr thì bị Công an thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện N đang cất giấu trong người 03 gói nilon, bên trong đựng chất ở dạng tinh thể màu trắng khác, N khai là số ma túy này N xin của người thanh niên ở Công viên Yersin.

Tại Kết luận giám định số 190/GĐ-PC09 và số 191/GĐ-PC09 ngày 14/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu tinh thể đựng trong 08 gói nilon được niêm phong (thu của Đỗ Công Tr) gửi giám định có khối lượng 6,9161 gam và 03 gói nilon được niêm phong (thu của Vũ Thị Ý N) có khối lượng 0,5120 gam đều là chất Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy, nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Cáo trạng số 81/CT-VKS ngày 06/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng truy tố các bị cáo Vũ Thị Ý N và Đỗ Công Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2019/HSST ngày 17/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng:

Tuyên bố các bị cáo Vũ Thị Ý N và Đỗ Công Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt:

Bị cáo Vũ Thị Ý N 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/12/2018.

Bị cáo Đỗ Công Tr 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/12/2018.

Ngoài ra bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Công Tr giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; không thắc mắc, khiếu nại bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 19 giờ một ngày đầu tháng 12/2018, Vũ Thị Ý N được một người thanh niên cho 03 gói nilon hàn kín, bên trong đựng ma túy đá tại Công viên Yersin, phường 10, thành phố Đ. Khoảng 20 giờ ngày 07/12/2018, N mua 3.000.000đ ma túy của một người tên A để sử dụng tại quán cà phê Kết Nối ở đường H, phường 6, thành phố Đ rồi đưa về nhà trọ cất giấu. Đến khoảng 07 giờ 30 ngày 08/12/2018, Như đến phòng trọ số H.201 của Đỗ Công Tr (ở cùng khu nhà trọ với N), đưa cho Tr 08 gói ma túy mà N đã mua của A nhờ Tr cất giữ để sau này cùng sử dụng chung thì Tr đồng ý. Tối ngày 11/12/2018, N quay lại phòng trọ của Tr rồi cùng Tr, Nguyễn Vũ Tuấn Ng và Đặng Lâm V sử dụng ma túy; sau đó N đưa Tr cất giữ số ma túy còn lại. Đến trưa ngày 12/12/2018, Công an thành phố Đ tiến hành kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Đỗ Công Tr đang cất giấu 08 gói nilon, bên trong đựng chất ở dạng tinh thể màu trắng nói trên. Đến 12 giờ 15 cùng ngày, Vũ Thị Ý N trở lại phòng trọ của Tr thì bị Công an thành phố Đ kiểm tra, phát hiện N đang cất giấu trong người 03 gói nilon, bên trong đựng chất ở dạng tinh thể màu trắng khác, N khai là số ma túy này N xin của người thanh niên ở Công viên Yersin.

Tại Kết luận giám định số 190/GĐ-PC09 và số 191/GĐ-PC09 ngày 14/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Số ma túy thu của Đỗ Công Tr có khối lượng 6,9161 gam và số ma túy thu của Vũ Thị Ý N có khối lượng 0,5120 gam đều là chất Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy, nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ

Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo N tại giai đoạn sơ thẩm; lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Đỗ Công Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đỗ Công Tr: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong hạn luật định và đúng quy định nên đuợc xem xét.

Bị cáo là nguời đã trưởng thành, biết rất rõ việc tàng trữ và sử dụng ma túy là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hiện nay, tình trạng người nghiện ma túy ngày càng phổ biến và gia tăng, kéo theo các loại tội phạm khác xuất phát từ việc sử dụng ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương, do đó cần phải xử lý nghiêm đối với các tội phạm liên quan đến ma túy.

Cấp sơ thẩm đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, xử phạt bị cáo 06 năm tù là phù hợp. Bị cáo kháng cáo không xuất trình tình tiết giảm nhẹ nào khác nên không chấp nhận kháng cáo.

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Công Tr; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Công Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Đỗ Công Tr 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/12/2018.

Căn cứ Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Đỗ Công Tr phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2019/HS-PT ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:78/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về