TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 78/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:197/2018/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2018 về việc “Ly hôn và tranhchấp nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:80/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Sơn Thị H, sinh năm 1979 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh S.
Bị đơn: Ông Lý Th, sinh năm 1985 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Sơn Thị H trình bày:
Bà H với ông Lý Th kết hôn với nhau năm 2007 (đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 167 ngày 27 tháng 10 năm 2010). Sau khi kết hôn bà H và ông Th về sống bên gia đình bà H. Thời gian đầu hai người sống hạnh phúc. Đến năm 2012, hai người phát sinh mâuthuẫn, nguyên nhân do ông Th bạo lực gia đình dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, hai người ly thân từ tháng 6/2012 đến nay. Nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Th.
Trong quá trình chung sống bà H và ông Th có hai con chung tên Lý Ngọc D, sinh ngày 22/10/2008 và Lý Thị Mỹ D1 sinh ngày 28/8/2010 đang sống cùng bà H.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Ông Lý Th không có lời trình bày do vắng mặt.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý số 197/TB- TLVA ngày 05 tháng 9 năm 2018, tống đạt hợp lệ cho bị đơn ông Lý Th nhưng ông Th không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà Sơn Thị H. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ hai lần đối với ông Th để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Th đều vắng mặt không có lý do. Tòa án đã lập biên bản về việc vắng mặt ông Th, không tiến hành hòa giải được và ông Th cũng không có lời khai trong hồ sơ vụ án. Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Cho bà Sơn Thị H ly hôn với ông Lý Th. Về con chung: Giao hai con cho bà H trực tiếp nuôi, ông Th không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Sơn Thị H có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay ông Lý Th mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó Tòa án căn cứ vào khoản 1 Điều 228 và điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đối với bà H và ông Th.
[2] Về nội dung: Bà Sơn Thị H giữ nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án cho ly hôn với ông Lý Th. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Sơn Thị H với ông Lý Th là hôn nhân hợp pháp (hai người có đăng ký kết hôn). Trước khi kết hôn hai người có tìm hiểu nhau trước, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2012, thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Th bạo lực gia đình dẫn đến vợ chồng không còn hạnh phúc. Hai người không còn chung sống với nhau từ tháng 6/2017, thời gian ly thân vợ chồng không ai tới lui, chăm sóc nhau, trong giai đoạn hòa giải cũng như tại phiên tòa bà H kiên quyết yêu cầu ly hôn nên xét thấy tình trạng hôn nhân của hai người đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó bà H yêu cầu được ly hôn với ông Th là có căn cứ được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[4] Về con chung: Cháu Lý Ngọc D, sinh ngày 22/10/2008 và cháu Lý Thị Mỹ D1, sinh ngày 28/8/2010 đang sống cùng bà H. Về nguyên tắc việc trông nom, chăm sóc con chung là nghĩa vụ của cha mẹ. Bà H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con, xét thấy bà H có đủ điều kiện nuôi con và yêu cầu này là có căn cứ được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con do bà H không yêu cầu nên ông Th không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
[6] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do bà H yêu cầu nên bà H phải chịu theo luật định.
[8] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Sơn Thị H.
- Về hôn nhân: Bà Sơn Thị H được quyền ly hôn với ông Lý Th.
- Về con chung: Giao cháu Lý Ngọc D, sinh ngày 22/10/2008 và cháu Lý Thị Mỹ D1 cho bà Sơn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông Lý Th không phải cấp dưỡng cho con. Ông Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Th lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Th. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà Sơn Thị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn bà Sơn Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0002793 ngày 31/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S. Như vậy bà H đã nộp xong án phí.
Án sơ thẩm được xét xử công khai báo cho các đương sự biết có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 78/2018/HNGĐ-ST ngày 27/11/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 78/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về