Bản án 78/2018/HNGĐ-ST ngày 19/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 78/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 19 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 246/2018/TLST - HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2018/QĐXX-ST ngày 01 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2018/QĐST - HPT ngày 29/6/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Thị Quý N, sinh năm: 1995. Địa chỉ: Đường L, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Bị đơn: Anh Đào Minh P, sinh năm: 1994. Địa chỉ: Đường N, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn lập ngày 07/3/2018 và các lời khai tại Tòa án chị Phan Thị Quý N trình bày:

Năm 2014 chị và anh Đào Minh P tự nguyện xây dựng gia đình và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai mai mối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc nên sinh được một người con. Từ năm 2017 anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nhau, không tôn trọng và tin tưởng nhau, cả hai đã cố gắng khắc phục nhưng không thể nào hàn gắn được, thời gian gần đây anh Đào Minh P sử dụng ma túy đá nên thường xuyên cáu ghắt với chị, gia đình hai bên đã nhiều lần khuyên can nhưng anh P vẫn không khắc phục, vì vậy từ tháng 01 năm 2018 chị N đã bỏ về nhà mẹ ruột sinh sống cho đến nay, trong thời gian sinh sống tại nhà mẹ chị N, anh Đào Minh P thỉnh thoảng lại đến kiếm chuyện, đe dọa đến tính mạng và sức khỏe của hai mẹ con chị nên chị rất lo lắng. Tại tòa hôm nay chị N xác định chị không còn tình cảm gì với anh Đào Minh P bởi vì mâu thuẫn giữa chị với anh Đào Minh P đã quá trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đào Minh P để chị ổn định tinh thần, yên tâm làm ăn nuôi con.

Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Đào Minh H, sinh ngày 01/6/2014, cháu còn nhỏ, đang ở với chị nên chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án cho anh Đào Minh P nhưng không tống đạt được cho anh P vì anh P không ở nhà nên Tòa án đã tiến hành niêm yết Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho anh P nhưng vẫn không thấy anh P đến Tòa làm việc. Ngày 19/5/2018 Tòa án đã tiến hành xác minh tại tổ dân phố số N, khu phố M, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, kết quả xác minh cho biết anh P có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại số 34/3C đường Nguyễn Trường Tộ thuộc tổ dân phố số N, khu phố M, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2014, năm 2017 anh P và chị N thường xảy ra mâu thuẫn nên đầu năm 2018 chị N đã chuyển về sinh sống cùng mẹ ruột. Như vậy Tòa án đã tiến hành đầy đủ các biện pháp thu thập chứng cứ nhưng anh P vẫn cố tình vắng mặt, không hợp tác để giải quyết vụ việc. Vì vậy căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu của nguyên đơn cung cấp Tòa án tiến hành giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật, việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến nay không có gì sai phạm. Về nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu do nguyên đơn cung cấp, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của chị N, giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Phan Thị Quý N và anh Đào Minh P có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nay chị Phan Thị Quý N có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh P.

[2] Về hôn nhân: Chị Phan Thị Quý N và anh Đào Minh P xây dựng gia đình với nhau vào năm 2014, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do đó là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hạnh phúc nên sinh được một người con, từ năm 2017 đến nay anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nhau, không tôn trọng và tin tưởng nhau, anh P không cùng chị làm ăn tạo dựng kinh tế trong gia đình, thiếu trách nhiệm với vợ con, thường sử dụng ma túy đá, về nhà kiếm chuyện cãi nhau với chị N, gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải và vì con chung nên chị N đã cố gắng chịu đựng và chờ đợi nhưng anh P vẫn không thay đổi, thời gian gần đây, anh P còn de đọa đến tính mạng, sức khỏe của chị nên ảnh hưởng đến tâm lý của chị và gia đình cũng như sự phát triển bình thường của con chung, do đó mâu thuẫn anh chị trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị N xin ly hôn với anh P, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N, chị Phan Thị Quý N được ly hôn với anh Đào Minh P.

[3] Về con chung: Có 01 con chung là cháu Đào Minh H, sinh ngày 01/6/2014, chị N có nguyện vọng được nuôi con chung đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào các điều kiện cho sự phát triển tốt về thể chất, đảm bảo việc học hành và sự phát triển tốt về tinh thần, hơn nữa cháu H còn nhỏ, cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị Phan Thị Quý N. Chị Phan Thị Quý N được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đào Minh H, sinh ngày 01/6/2014 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), anh Đào Minh P không cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Phan Thị Quý N phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 179, điểm b khoản Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Quý N. 

Chị Phan Thị Quý N được ly hôn với anh Đào Minh P.

Chị Phan Thị Quý N được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đào Minh H, sinh ngày 01/6/2014 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), anh Đào Minh P không cấp dưỡng nuôi con. Anh Đào Minh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về án phí: Chị Phan Thị Quý N nộp 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000353 ngày 27/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thành tiền án phí. Chị Phan Thị Quý N đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2018/HNGĐ-ST ngày 19/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:78/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về