Bản án 78/2018/HNGĐ-ST ngày 19/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NT, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 78/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố NT xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 144/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Sinh T sinh ngày 23/9/1988; địa chỉ: Thôn Đ, xã V, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

2. Bị đơn: Bà Vũ Phượng H sinh ngày 24/8/1988; địa chỉ: Thôn Đ, xã V, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, các biên bản không tiến hành hòa giải được và tại phiên tòa, nguyên đơn là ông Nguyễn Sinh T trình bày: Ông và bà Vũ Phượng H tự nguyện kết hôn vào năm 2009, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa. Trong quá trình chung sống, giữa ông và bà H phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vã; cuộc sống vợ chồng ngày càng có khoảng cách và không hòa hợp được với nhau; hiện nay ông và bà H đã sống ly thân với nhau từ tháng 4/2017 cho đến nay. Nay ông nhận thấy giữa ông và bà H không còn tình cảm với nhau nên ông yêu cầu được ly hôn với bà H.

- Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giữa ông và bà Vũ Phượng H có 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Thành N, sinh ngày 15/9/2010. Hiện nay cháu N đang ở với bà H; khi ly hôn, ông đồng ý giao cháu Nhân cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu và ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu N mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng), kể từ tháng 7/2018 cho đến khi cháu N đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

- Về tài sản chung và nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là bà Vũ Phượng H: Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ, niêm yết công khai các văn bản tố tụng, nhưng bà Vũ Phượng H vẫn cố tình vắng mặt. Hồ sơ không thể hiện được lời khai của bị đơn.

Phát biểu tại phiên tòa, Kiểm sát viên xác định:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã tuân thủ các quy định của pháp luật về trình tự tố tụng của vụ án; các đương sự đều đã được đảm bảo thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình trong quá trình giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Xét mâu thuẫn giữa nguyên đơn và bị đơn là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn; đối với vấn đề nuôi con chung, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên giao con chung là cháu Nguyễn Vũ Thành N, sinh ngày 15/9/2010 cho bà Vũ Phượng H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng; đối với vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Sinh T, ông Nguyễn Sinh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Vũ Thành N mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng), kể từ tháng 7/2018 cho đến khi cháu N đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi); đối với vấn đề tài sản chung và nợ chung, do nguyên đơn không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ, nhưng bà Vũ Phượng H cố tình vắng mặt. Tòa án đã thực hiện việc niêm yết công khai Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về các phiên hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; do đó, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Sinh T và bà Vũ Phượng H tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã V, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 92 ngày 23/12/2009; đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Theo lời trình bày của nguyên đơn là ông Nguyễn Sinh T thì trong quá trình chung sống, giữa ông và bị đơn là bà Vũ Phượng H phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vã; cuộc sống vợ chồng ngày càng có khoảng cách và không hòa hợp được với nhau; hiện nay ông và bà H đã sống ly thân với nhau từ tháng 4/2017 cho đến nay. Nay ông nhận thấy giữa ông và bà H không còn tình cảm với nhau nên ông yêu cầu được ly hôn với bà H.

Trên cơ sở lời trình bày của nguyên đơn là ông Nguyễn Sinh T và kết quả xác minh của Tòa án, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình trạng hôn nhân giữa ông Nguyễn Sinh T và bà Vũ Phượng H đã đến mức mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc sống gia đình cũng không đem lại hạnh phúc cho đôi bên. Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử cũng xét thấy, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ, niêm yết công khai các văn bản tố tụng, nhưng bị đơn là bà Vũ Phượng H vẫn cố tình vắng mặt, không đến Tòa án để làm việc; điều này thể hiện bị đơn là bà Vũ Phượng H không có thiện chí hàn gắn tình cảm với nguyên đơn là ông Nguyễn Sinh T; do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Sinh T là chính đáng, có cơ sở nên cần chấp nhận.

 [3] Về con chung: Theo lời khai và các tài liệu do nguyên đơn là ông Nguyễn Sinh T cung cấp và kết quả xác minh của Tòa án thì giữa ông và bà Vũ Phượng H có 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Thành N, sinh ngày 15/9/2010. Hiện nay cháu N đang ở với bà H; khi ly hôn, ông Nguyễn Sinh T đồng ý giao cháu N cho bà Vũ Phượng H trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Nguyễn Vũ Thành N và ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu N mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng), kể từ tháng 7/2018 cho đến khi cháu N đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi); trên cơ sở sự tự nguyện của nguyên đơn là ông Nguyễn Sinh T, căn cứ vào hoàn cảnh thực tế và nguyện vọng của cháu Nguyễn Vũ Thành N, Hội đồng xét xử xét thấy việc giao cho bà Vũ Phượng H nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Nguyễn Vũ Thành N là hợp lý và phù hợp quy định của pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu N. Hội đồng xét xử xét ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Sinh T về việc cấp dưỡng nuôi cháu N mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng), kể từ tháng 7/2018 cho đến khi cháu N đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

 [4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Sinh T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Về án phí: Ông Nguyễn Sinh T phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm đối với phần nghĩa vụ phải cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 5 và khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử :

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Nguyễn Sinh T; ông Nguyễn Sinh T được ly hôn với bà Vũ Phượng H.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Có 01 con chung là là cháu Nguyễn Vũ Thành N, sinh ngày 15/9/2010; giao cho bà Vũ Phượng H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Vũ Thành N.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Sinh T về việc cấp dưỡng nuôi con chung, ông Nguyễn Sinh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Vũ Thành N mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng), kể từ tháng 7/2018 cho đến khi cháu Nguyễn Vũ Thành N đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Ông Nguyễn Sinh T được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Trong quá trình nuôi dưỡng con chung, nếu xét thấy cần thiết, ông T, bà H đều có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung cũng như việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Sinh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Ông Nguyễn Sinh T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với phần nghĩa vụ cấp dưỡng; như vậy, ông T phải nộp 600.000 đồng án phí, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm mà ông T đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2016/0008307 ngày 17/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố NT; ông Nguyễn Sinh T còn phải nộp 300.000 đồng án phí.

Quy định : Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành khoản tiền phải thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu thêm một khoản tiền lãi theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án tại thời điểm thanh toán.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Sinh T có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bà Vũ Phượng H vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2018/HNGĐ-ST ngày 19/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:78/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về