Bản án 78/2018/HNGĐ-ST ngày 06/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 78/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 142/2018/TLST-HNGĐ ngày 10/4/2018 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/7/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Thiều Thị T, sinh năm 1983; địa chỉ thường trú: Tổ 3, khu phố B, phường K, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Anh G, sinh năm 1984; địa chỉ thường trú: Tổ 3, khu phố B, phường K, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/3/2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Thiều Thị T trình bày:

Bà T và ông Lê Anh G tự nguyện quen biết, tìm hiểu nhau được 02 năm, được sự đồng ý của 2 bên gia đình, bà T và ông G chung sống năm 2005 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa ngày 22/3/2005. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc được 09 năm thì thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Bà Thảo đã tìm mọi cách để vợ chồng hàn gắn tình cảm nhưng không được. Bà T và ông G hiện đã ly thân. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về hôn nhân: Bà Thiều Thị T yêu cầu được ly hôn với ông Lê Anh G.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thị Thảo L, sinh ngày 06/8/2006. Khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông Giang phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho đến khi cháu Lê Thị Thảo L đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Anh G được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày ngày 27/4/2018 và 05/6/2018; triệu tập tham gia phiên tòa ngày 18/7/2018 và 06/9/2018 nhưng ông G vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà Thảo.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên toà sơ thẩm như sau:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về việc xin ly hôn với ông G; giao con chung là cháu Lê Thị Thảo L, sinh ngày 06/8/2006 cho bà Thảo nuôi dưỡng; ông G phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho đến khi cháu Lê Thị Thảo L đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về việc vắng mặt bị đơn ông Lê Anh G: Ông G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, nhưng ông G vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt ông G.

 [2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Thiều Thị T và ông Lê Anh G là những người đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 21 ngày 22/3/2005, đây là hôn nhân hợp pháp.

 [3]. Về mâu thuẫn vợ chồng: Bà T xác định quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, hiện bà T và ông G đã ly thân. Vì mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông G. Ông G được Tòa án triệu tập hợp lệ để hoà giải, tham gia phiên toà nhưng ông G không đến và không có ý kiến, điều này cho thấy ông G không quan tâm và cũng không có thiện chí để Tòa án hòa giải, vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con

cái. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng bà T và ông G là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông G là có cơ sở chấp nhận.

 [4]. Về việc nuôi con chung: Bà T và ông G có 01 con chung tên Lê Thị Thảo L, sinh ngày 06/8/2006. Bà T yêu cầu được nuôi cháu L. Bản tự khai ngày 12/7/2018, cháu L có nguyện vọng sống chung với mẹ; ông G không có ý kiến về việc nuôi con. Do đó, việc bà T yêu cầu cầu được trực tiếp nuôi con là có căn cứ, phù hợp quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

 [5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T yêu cầu ông G phải cấp dưỡng nuôi cháu L mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi phù hợp quy định tại Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

 [6]. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

 [7]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

 [8]. Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Các Điều 28, 35, 39, 92, 147, 227, 228, 266, 271, 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thiều Thị T về việc xin ly hôn và tranh chấp về nuôi con với ông Lê Anh G như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Thiều Thị T được ly hôn với ông Lê Anh G.

- Về con chung: Giao cháu Lê Thị Thảo L, sinh ngày 06/8/2006 cho bà Thiều Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, ông Lê Anh G phải cấp dưỡng nuôi cháu L mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi, bắt đầu từ tháng 9 năm 2018.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán xong thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tính trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Bà Thiều Thị T và ông Lê Anh G đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người được trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Thiều Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0013837, ngày 04/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên. Ông Lê Anh G phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Thiều Thị T có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn ông Lê Anh G vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2018/HNGĐ-ST ngày 06/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:78/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về