Bản án 77/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 77/2021/HS-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2021/TLST - HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2021/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 6 năm 2021 đối với:

Bị cáo Hoàng Xuân Ph, sinh ngày 19 tháng 01 năm 1985.

Nơi cư trú: Số nhà 02, ngõ 220, đường TrL, tổ 11, phường TrL, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Y và bà Phạm Thị Th.Vợ: Vi Thị T, sinh năm 1985 (Đã ly hôn). Có một con sinh năm 2007.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 61/2009/HSST ngày 12/3/2009 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt Hoàng Xuân Ph 02 năm 06 tháng tù về tội: “Vận chuYtrái phép chất ma túy”; án phí hình sự sơ thẩm 50.000 đồng. Bị cáo chấp hình xong hình phạt tù ngày 24/9/2010. Xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xác định Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương chưa thụ lý việc thi hành án dân sự của Hoàng Xuân Ph. Xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xác định Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình chưa nhận được quyết định ủy thác việc thi hành án dân sự của Hoàng Xuân Ph.

Quyết định số 347/QĐ-UBND, ngày 25/01/2011 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội đối với Hoàng Xuân Ph thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong quyết định ngày 26/01/2012.

Ngày 08/3/2021, bị cáo cùng đồng phạm trộm cắp tài sản bị Công an huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định bắt, hiện nay bị cáo đang bị tạm giam theo quyết định tạm giam số 16/2021/HSST –QĐTG ngày 01/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Nam Trực tỉnh Nam Định. (Bị cáo có mặt tại phiên Tòa).

* Bị hại: Anh Vũ Trọng Tr, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Tổ 09, phường HD, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Chính L, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Tổ 09, phường HD, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

(Vắng mặt: Anh Tr, anh L).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 23 giờ ngày 05/01/2021, Hoàng Xuân Ph điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Nouvo, màu đỏ-đen, biển số 29Y5-3148 đi đến nhà Trần Minh Đức, sinh năm 1981; trú tại số nhà 158A, đường Trần Quang Khải, tổ 01, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình để rủ Đức đi trộm cắp cây cảnh bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến nhà Đức, Đức cầm theo một túi vải màu đen bên trong đựng các dụng cụ trộm cắp cây rồi điều khiển xe chở Ph đi lên cầu Bo cũ, đi về khu vực ngã tư đường Võ Nguyên Giáp. Khi đến khu vực ngã tư đường Võ Nguyên Giáp gần đền thờ Bác Hồ thì phát hiện khu vực này có nhiều vườn trồng đào nên Đức dừng xe lại. Quan sát thấy không có ai trông coi nên Đức dắt xe máy vào khu vực đường đất cạnh vườn trồng đào đối diện đền thờ Bác Hồ, thuộc tổ 11, phường HD, thành phố Thái Bình để cất giấu. Sau đó Đức và Ph mở túi dụng cụ, Ph lấy ra 01 con dao (dạng dao phóng lợn) để đào gốc cây, rồi đi vào vườn đào của gia đình anh Vũ Trọng Tr để trộm cắp cây đào. Ph dùng dao đào 01 cây đào thế (dạng đào phai), dáng trực, cao 2,5 mét, tán tự nhiên, đường kính gốc 25cm còn Đức đứng bên cạnh cảnh giới. Sau khi đào xong, Ph và Đức cùng khiêng cây đào ra chỗ giấu xe máy. Ph cất dao vào túi đựng dụng cụ để ở bụng xe. Đức điều khiển xe chở Ph ngồi sau ôm cây đào đi lên cầu Vũ Đông, thành phố Thái Bình thì phát hiện có người đuổi theo. Thấy vậy, Đức tăng ga đi theo hướng đường tránh S2 về xã Vũ Đông rồi rẽ vào khu vực nghĩa trang xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình. Khi đến khu vực đường đất cạnh nghĩa trang xã Vũ Đông thì Đức và Ph đã bỏ lại xe máy, cây đào và 01 túi vải màu đen bên trong có ba dao, một kìm thủy lực, một kìm cộng lực, một dao cắt ống kim loại, một sạc dự phòng màu trắng, một cưa cầm tay, hai kìm cắt kim loại, hai kéo cắt cây, một tua vít, T cờ lê các loại, một thuổng nhỏ tự chế rồi chạy bộ lên đường và đi nhờ người đi đường về nhà.

Tại bản kết luận định giá số 01/KL-HĐĐGTS ngày 26/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Bình, kết lu ận: Một cây đào thế (đào phai), dáng trực, cao 2,5 mét, tán tự nhiên, đường kí nh gốc 25cm, cây đã thành phẩm trị giá 7.100.000 đồng (Bảy triệu một trăm nghìn đồng).

Tại phiên Tòa bị cáo Ph khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 72/CT- VKSTPTB ngày 25/5/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Hoàng Xuân Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Ph về tội danh và điều luật như bản cáo trạng số 72/CT- VKSTPTB và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm h, s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 50 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Xuân Ph. Xử phạt bị cáo Ph từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự: anh Nguyễn Trọng Tr đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo Ph phải bồi thường thiệt hại bị xâm phạm nên không giải quyết. Không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo Ph không có ý kiến gì tranh luận với Kiểm sát viên về bản luận tội đối với bị cáo tại phiên Tòa. Bị cáo Ph nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo, bị hại và người chứng kiến không khiếu nại hay có ý kiến gì nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2]. Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên Tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như: Đơn trình báo và lời khai của bị hại là anh Vũ Trọng Tr; Biên bản tạm giữ đồ vật do Công an phường HD, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập hồi 03 giờ ngày 06/01/2021 tại thôn Lê Lợi, xã Vũ Đông, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; Biên bản khám nghiệm hiện trường và bản ảnh hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập ngày 06/01/2021 tại vườn trồng đào của gia đình anh Vũ Trọng Tr; Biên bản và bản ảnh xác định địa điểm trộm cắp tài sản; Kết luận định giá tài sản số 01/KL- HĐĐGTS ngày 26/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Bình và lời khai người chứng kiến là anh Nguyễn Chính L. Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 00 giờ ngày 06/01/2021, Hoàng Xuân Ph có hành vi trộm cắp 01 cây đào thế (dạng đào phai), dáng trực, cao 2,5 mét, tán tự nhiên, đường kính gốc 25cm trị giá 7.100.000 đồng tại vườn trồng đào thuộc tổ 11, phường HD, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình của gia đình anh Vũ Trọng Tr. Do đó, hành vi của bị cáo Ph đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội đúng pháp luật.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

[3]. Đánh giá tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Ph đã có hành vi bí mật lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh Tr nên bị cáo đã chiếm đoạt của anh Tr một cây đào thế (dạng đào phai) với giá trị chiếm đoạt là 7.100.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Xuân Ph là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo:

[4.1]. Bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo đã bị kết án về tội “Vận chuYtrái phép chất ma túy” và đã bị áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm chữa bệnh giáp dục.

[4.2]. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, tài sản bị cáo trộm cắp là cây đào trị giá 7.100.000 đồng là “gây thiệt hại không lớn” theo quy định tại điểm h, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

[4.3]. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5]. Về hình phạt:

[5.1]. Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần thiết phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân tốt đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

[5.2]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Ph có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Anh Vũ Trọng Tr đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo Ph phải bồi thường thệt hại do tài sản bị xâm phạm nên không phải giải quyết.

[7]. Về vật chứng: Đối với một điện thoại di động nhãn hiệu Mastell màu xanh, cũ, đã hỏng của bị cáo Ph, bị cáo không đề nghị nhận lại nên cần tịch thu, tiêu hủy là phù hợp. Đối với 01 túi vải màu đen bên trong có ba dao, một kìm thủy lực, một kìm cộng lực, một dao cắt ống kim loại, một sạc dự phòng màu trắng, một cưa cầm tay, hai kìm cắt kim loại, hai kéo cắt cây, một tua vít, T cờ lê các loại, một thuổng nhỏ tự chế Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo Ph là công cụ phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với q uy định của pháp luật.

[8]. Về vấn đề khác trong vụ án: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo, sơn màu đỏ đen, biển số 29Y5-3148 Hoàng Xuân Ph khai là của Trần Minh Đức nhưng chưa làm việc được với Đức và không có tài liệu nào khác xác định là của Đức. Kết quả điều tra xác định số khung, số máy của xe không bị tẩy xóa và chủ xe Nguyễn Thanh L, địa chỉ: Ban chỉ huy quân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Xác minh tại Ban chỉ huy quân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xác định: Không có người nào tên là Nguyễn Thanh L. Chiếc biển số 29Y5- 3148 xác định là của chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, màu sơn xanh, chủ xe Trần Nam Thắng, địa chỉ: 14-16, Ngô Quyền, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Tiến hành xác minh xác định công dân Trần Nam Thắng không có mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau. Anh Vũ Trọng Tr trình báo bị mất 02 cây đào, quá trình điều xác định Hoàng Xuân Ph thực hiện hành vi trộm cắp 01 cây đào thế (dạng đào phai), dáng trực, cao 2,5 mét, tán tự nhiên, đường kính gốc 25cm trị giá 7.100.000 đồng. Đối với cây đào thế (dạng đào phai), dáng trực, cao 2,54 mét, tán tự nhiên, đường kính gốc 25,5cm như anh Tr khai báo, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi có đủ căn cứ thì xử lý sau. Đối với Trần Minh Đức, sinh năm 1981; trú tại số nhà 158A, đường Trần Quang Khải, tổ 01, phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình: Theo lời khai của Hoàng Xuân Ph thì Đức là người cùng Ph thực hiện hành vi trộm cắp cây đào của gia đình an h Vũ Trọng Tr. Cơ quan điều tra đã triệu tập, xác minh nhiều lần nhưng Đức không có mặt tại gia đình và địa phương. Ngoài lời khai của Ph, không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh Đức cùng Ph thực hiện hành vi trộm cắp. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra khi có căn cứ thì xử lý sau.

[9]. Về án phí: Bị cáo Ph phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[10].Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 173, điểm h, s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 50, điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106, điều 135, điều 136, điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Xuân Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Xuân Ph 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Anh Vũ Trọng Tr không yêu cầu bị cáo Hoàng Xuân Ph phải bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm nên không giải quyết.

4. Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy một điện thoại di động nhãn hiệu Mastell màu xanh, cũ, đã hỏng của bị cáo Hoàng Xuân Ph.

- Tịch thu, tiêu hủy một túi vải màu đen bên trong có ba dao, một kìm thủy lực, một kìm cộng lực, một dao cắt ống kim loại, một sạc dự phòng màu trắng, một cưa cầm tay, hai kìm cắt kim loại, hai kéo cắt cây, một tua vít, T cờ lê các loại, một thuổng nhỏ tự chế của bị cáo Hoàng Xuân Ph.

(Toàn bộ số vật chứng trên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình đã chuYsang Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình có đặc điểm mô tả như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/5/2021).

5. Về án phí: Bị cáo Hoàng Xuân Ph phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hoàng Xuân Ph có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 22/6/2021. Anh Vũ Trọng Tr có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 77/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:77/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về