Bản án 77/2021/HS-ST ngày 15/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG T- TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 77/2021/HS-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 81/2021/TLST-HS, ngày 05/08/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST-HS ngày 01/09/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tống Văn T, tên gọi khác: không; giới tính: Nam.

Sinh năm 1975, tại xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản Nậm C 2, xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 12/12.

Con ông: Tống Văn K, sinh năm 1948 và con bà: Lò Thị Ch, sinh năm 1950, Đều cư trú: Bản Nậm C 2, xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.

Bị cáo có 05 anh, em, bị cáo là con cả trong gia đình;

Bị cáo có vợ: Tống Thị S, sinh năm 1975, nơi cư trú: Bản Nậm C 2, xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.

Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2001.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/5/2021, đến ngày 20/5/2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay tại xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tống Thị S, sinh năm 1975, nơi cư trú: Bản Nậm C 2, xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 00 phút, ngày 11/5/2021, Tống Văn T sinh năm 1975, trú tại bản Nậm C 2, xã Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu mang theo tiền và điều khiển xe mô tô Honda Wave RSX (xe không có biển kiểm soát) của gia đình T đi từ nhà lên khu vực bản Pa M, xã Hua B, huyện Nậm N để tìm mua Heroine về sử dụng. Đến khoảng 16 giờ 20 phút cùng ngày, Tống Văn T đến bản Pa M, xã Hua B, huyện Nậm N thì gặp một người thanh niên dân tộc Mông khoảng 17 tuổi đang đứng ở ven đường. Gặp nhau, T nhờ người thanh niên mua hộ Heroine, đồng thời đưa cho người thanh niên 200.000 đồng. Người thanh niên nhận tiền và đi vào trong bản Pa M. Khoảng 10 phút sau, người thanh niên quay lại đưa cho T 01 gói Heroine được gói ngoài bằng 04 lớp (trong đó: bên ngoài là 03 lớp nilon màu hồng và trong cùng là 01 lớp nilon màu trắng bên trong có chứa Heroine). T mở gói Heroine ra kiểm tra và dùng tay cấu lấy ít từ gói Heroine trên đưa cho người thanh niên. Sau đó, T gói lại gói Heroine như cũ và cầm gói Heroine ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về, còn người thanh niên đi đâu làm gì T không rõ. Đến khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe mô tô đến Km 289 + 700 quốc lộ 4H thuộc địa phận bản Nà H, xã Bum N, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu thì gặp tổ công tác Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường T đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện Tống Văn T đang cất giấu tại lòng bàn tay trái 01 gói Heroine được gói ngoài bằng 04 lớp nilon (trong đó: bên ngoài là 03 lớp nilon màu hồng và trong cùng là 01 lớp nilon màu trắng bên trong có chứa Heroine). Tại đây, T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Trước sự việc trên, tổ công tác đã mời người chứng kiến, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật theo quy định.

Tại kết luận giám định số 41/KLGĐ ngày 11/5/2021 của người giám định tư pháp theo vụ việc Lê Văn Hưng thuộc Công an huyện Mường T, tỉnh Lai Châu kết luận: Chất bột khô, màu trắng thu giữ của Tống Văn T có khối lượng 0,75 gam (Không phẩy bảy mươi lăm gam).

Tại kết luận giám định số 345/GĐ-KTHS ngày 16/5/2021 của hòng k thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine.

Cáo trạng số 51/CT-VKS-MT ngày 05/08/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Tống Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa hôm nay giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Tống Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 BLHS, Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Tống Văn T từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Được khấu trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày (Từ ngày 11/05/2021 đến ngày 20/05/2021). Thời hạn tù còn lại tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, do hoàn cảnh bị cáo khó khăn, không có điều kiện thi hành án. Về xử lý vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,6 gam Heroine còn lại sau khi gửi đi giám định và 04 mảnh nilon (03 mảnh nilon màu hồng, 01mảnh nilon màu trắng) sau xác định khối lượng vật chứng. Chấp nhận việc xử lý vật chứng của Cơ quan cảnh sát Điều tra - Công an huyện Mường T trả chiếc xe mô tô Honda Wave RSX (xe không có biển kiểm soát) cho chị Tống Thị S là đúng quy định của pháp luật. Tài sản chiếc xe mô tô đó thuộc sở hữu của chị Tống Thị S là vợ của Tống Văn T, việc T sử dụng chiếc xe mô tô để đi mua Heroine thì chị S không biết. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 BLTTHS và khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đối với người thanh niên dân tộc Mông khoảng 17 tuổi đã mua hộ Heroine cho Tống Văn T: Quá trình điều tra không xác định được lai lịch của người này nên không có cơ sở xem xét xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận, không có ý kiến bổ sung luận cứ bào chữa. Nhất trí nội dung Luận tội của Kiểm sát viên, nhất trí luận cứ bào chữa. Lời nói sau cùng của bị cáo: Hành vi của bị cáo vi phạm pháp luật, phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T, Kiểm sát viên: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có ai ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Tống Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan Điều tra. Đủ cơ sở khẳng định bị cáo Tống Văn T mục đích mua Heroine về để sử dụng vì bị cáo là người nghiện chất ma túy. Đến khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe mô tô đến Km 289 + 700 quốc lộ 4H thuộc địa phận bản Nà H, xã Bum N, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu thì gặp tổ công tác Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường T đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện bắt quả tang Tống Văn T đang cất giấu tại lòng bàn tay trái 01 gói Heroine được gói ngoài bằng 04 lớp nilon (bên ngoài là 03 lớp nilon màu hồng và trong cùng là 01 lớp nilon màu trắng bên trong có chứa Heroine), thu giữ 0,75 gam Heroine của T. Như vậy Tống Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng khối lượng heroine là 0,75 gam. Hành vi nêu trên của Tống Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:..........

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; ….” Bị cáo Tống Văn T đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T đã truy tố theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng hành vi của bị cáo.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo nhận thức được điều đó, nhưng vì bị cáo là người nghiện chất ma túy, nên bị cáo đã tàng trữ 0,75 gam (Không phẩy bảy mươi năm gam) Heroine.

[4] Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cần phải xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Xét về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền sự, tiền án.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo T sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Tại phiên tòa, cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5] Hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 điều 249 BLHS bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn, không có điều kiện thi hành, Hội đồng xét xử nhất trí miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,6 gam Heroine còn lại sau khi gửi đi giám định và 04 mảnh nilon màu vàng sau xác định khối lượng vật chứng. Chấp nhận việc xử lý vật chứng của Cơ quan cảnh sát Điều tra - Công an huyện Mường T trả chiếc xe mô tô Honda Wave RSX (xe không có biển kiểm soát) cho chị Tống Thị S là phù hợp. Vì tài sản chiếc xe mô tô đó thuộc sở hữu của chị Tống Thị S là vợ của Tống Văn T, việc T sử dụng chiếc xe mô tô để đi mua Heroine thì chị S không biết.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 BLTTHS và khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Có quyền kháng cáo bản án theo quy đinh tại Điều 331; Điều 333 BLHS.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47; Điều 50 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106; 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Tống Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Tống Văn T 02 (Hai) năm tù. Được khấu trừ thời gian tạm giữ là 9 ngày ngày 11/5/2021 đến ngày 20/5/2021. Thời hạn tù còn lại tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,6 gam Heroine còn lại sau khi gửi đi giám định và 04 mảnh nilon sau khi xác định khối lượng vật chứng. Hiện vật chứng đang bảo quản tại Chi cục Thi hánh án dân sự huyện Mường T.

3. Về án phí: Bị cáo Tống Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự ST.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 tròn ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án, về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2021/HS-ST ngày 15/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:77/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về