Bản án 77/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĂM CĂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 77/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 199/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 09 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1992 (xin vắng).

Đa chỉ: Ấp T, xã L, huyện N, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Cao Văn B, sinh năm 1990 (vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp B, xã L, huyện N, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 09 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày yêu cầu:

- Về hôn nhân: Bà D và ông B có thời gian tìm hiểu và kết hôn trên tinh thần tự nguyện vào năm 2012, hôn nhân có tổ chức lễ cưới gã theo phong tục địa phương, hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lâm Hải, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.

Lý do xin ly hôn: Khi thành hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, ông B không có trách nhiệm với vợ, con và không quan tâm đến gia đình. Vợ chồng ly thân khoảng 06 năm nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà D yêu cầu ly hôn với ông Cao Văn B.

- Về con chung: Có 01 người con tên Nguyễn Minh T, sinh ngày 20 tháng 02 năm 2013 (nam). Hiện nay Minh T đang sống chung với bà D, khi ly hôn bà D yêu cầu nuôi dưỡng Minh T, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và công nợ: Bà D tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Cao Văn B: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, hết thời hạn theo quy định mà ông B không có văn bản trình bày ý kiến của mình về việc bà D yêu cầu ly hôn, nuôi con, về tài sản chung và công nợ; Đồng thời, Tòa án đã tống đạt hợp lệ 02 lần Thông báo về phiên họp, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng ông B vẫn không tham gia.

Tại phiên tòa: Bà Nguyễn Thị D và ông Cao Văn B vắng mặt nên không có ý kiến khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Bà Nguyễn Thị D yêu cầu ly hôn với ông Cao Văn B, yêu cầu nuôi con; về tài sản chung và công nợ tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét tranh chấp giữa bà D và ông B là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.

Bà Nguyễn Thị D có đơn xin vắng phiên xét xử đề ngày 22/10/2019 vì bận đi làm ăn xa, yêu cầu này của bà D là chính đáng và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đi với ông Cao Văn B đã được Tòa án thông báo hợp lệ các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên xét xử sơ thẩm nhưng đều vắng mặt 02 lần không có lý do. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 207 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án không tiến hành hòa giải được và Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Cao Văn B.

[2]. Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị D và ông Cao Văn B có thời gian tìm hiểu và kết hôn trên tinh thần tự nguyện vào năm 2012, hôn nhân có lập thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, tỉnh Cà Mau, giấy chứng nhận kết hôn số 37 ngày 08 tháng 05 năm 2012. Vì vậy quan hệ hôn nhân của bà Nguyễn Thị D và ông Cao Văn B được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Quá trình chung sống giữa bà D và ông B phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và do ông B không có trách nhiệm với vợ, con. Bà D xác định hôn nhân tiếp tục duy trì không hạnh phúc nên bà yêu cầu ly hôn với ông Cao Văn B. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay, ông B không có thiện chí hàn gắn hôn nhân, bởi lẽ Tòa án có tổ chức các phiên hòa giải nhưng ông B không tham gia để hàn gắn hôn nhân, chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông B đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nếu duy trì hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc cho đôi bên nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị D đối với ông Cao Văn B theo quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về nuôi con chung: Có 01 người con tên Nguyễn Minh T, sinh ngày 20 tháng 02 năm 2013 (nam). Hiện nay Minh T đang sống chung với bà D, khi ly hôn bà D yêu cầu nuôi Minh T. Xét thấy yêu cầu nuôi con của bà D là chính đáng, trong thời gian bà và ông B ly thân thì cháu T sống với bà, đời sống của cháu ổn định; Mặt khác, qua làm việc với cháu T thì cháu có nguyện vọng được sống chung với mẹ (biên bản V/v ghi lời trình bày của đương sự ngày 17/9/2019), yêu cầu nuôi con của bà D phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình nên giao cháu Nguyễn Minh T cho bà D tiếp tục nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Việc cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và công nợ: Đương sự tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết, căn cứ vào Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự“Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”, do đương sự không đặt ra yêu cầu nên không xem xét là có cơ sở.

- Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không giá ngạch bà Nguyễn Thị D phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà D được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 147, khoản 1 Điều 207, Điều 220, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị D và ông Cao Văn B.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 20 tháng 02 năm 2013 (nam) cho bà Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và công nợ: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, bà D được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đông đã nộp theo biên lai thu tiền số 0006866 ngày 09 tháng 09 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:77/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Năm Căn - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về