Bản án 77/2019/HNGĐ-ST ngày 26/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 77/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 292/2019/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2019/QĐST, ngày 15 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị T - sinh năm 1992

Trú tại: xóm X - xã H T - huyện Y - tỉnh N

Nghề nghiệp: Làm ruộng (có đơn xin xử vắng mặt)

- Bị đơn: anh Nguyễn Văn L - sinh năm 1993

Trú tại: xóm X- xã - huyện Y - tỉnh N.

Nghề nghiệp: Làm ruộng (vắng mặt lần thứ hai)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn đề ngày 21/6/2019, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị T trình bày: chị và anh Nguyễn Văn L kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn vào 23 tháng 4 năm 2014, tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Y, tỉnh N. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, thường xuyên cải vả. Khiến cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng và nặng nề, chị không chịu đựng được nữa nên đã ôm con về ngoại ở từ năm 2015. Hai bên đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Chị xác định hai bên không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được chị yêu cầu tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L;

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Quang H (giới tính nam) - sinh ngày 24/3/2014 và Nguyễn Thanh T (giới tính nữ) - sinh ngày 07/9/2016. Hiện nay con chung đang được chị T chăm sóc, nuôi dưỡng,do con chung còn nhỏ nên chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con để có điều kiện chăm sóc tốt nhất cho con và không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản: chị Nguyễn Thị T không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn anh Nguyễn Văn L quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh L vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh L theo đúng quy định của pháp luật đồng thời lập biên bản tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho mẹ ruột của anh L là bà Lê Thị S, bà Sự đã cam kết nhận trách nhiệm giao lại cho anh L nhưng anh L vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không lấy lời khai của anh L được.Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại xóm, xã thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa chị T và anh L đúng như chị T trình bày trong đơn khời kiện và bản tự khai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại bản tự khai c ủa nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị T và anh L, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng anh L không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.

Ngày 02/8/2019, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 15/8/2019 chị T có đơn xin xử vắng mặt, anh L vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay anh L tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh L đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn và căn cứ vào khoản 1 điều 228 BLTTDS chấp nhận đơn xin xử vắng mặt của chị T và xét xử vắng mặt nguyên đơn

2. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị T, anh L là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng thời gian những năm gần đây không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L là có căn cứ, cần chấp nhận.

- Về quan hệ con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị T có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Việc nuôi con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên vì vậy nguyện vọng của chị T là nguyện vọng chính đáng cần xem xét.

Căn cứ vào các tài liệu có tại hồ sơ, bản tự khai chị T trình bày, hoàn cảnh hiện tại của anh L về điều kiện gần gũi và chăm sóc các con của anh L không đảm bảo bằng chị T. Mặt khác hiện nay con chung đang ở với chị T, tuổi còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ để ổn đinh học tập cũng như mọi sinh hoạt cho các con vì vậy xét nguyện vọng của chị T là phù hợp nên cần chấp nhận và tiếp tục giao cho chị T nuôi dưỡng 2 con chung đến khi trưởng thành là phù hợp với tình hình thực tế cũng như quy định của pháp luật.

- Quan hệ tài sản: chị T không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.

*Về án phí: chị T phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 2 điều 227; khoản 2 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51;56; 81; 82; 83 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;

- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

- Về con chung: Tiếp tục giao 2 con chung là cháu Nguyễn Quang H (giới tính nam) - sinh ngày 24/3/2014 và Nguyễn Thanh T (giới tính nữ) - sinh ngày 07/9/2016 cho chị Nguyễn thị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh L đến khi có yêu cầu.

Anh Nguyễn Văn L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

- Án phí: Căn cứ vào khoản 4 điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

Buộc chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị Trí được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0003792, ngày 01 tháng 7 năm 2019), chị H đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Tuyên bố để các bên đương sự biết. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2019/HNGĐ-ST ngày 26/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:77/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về