Bản án 77/2017/PTHS ngày 21/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 77/2017/PTHS NGÀY 21/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở, Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 68/2017/TLPT-HS ngày 02/8/2017 đối với bị cáo Nguyễn Văn Nh, do có kháng của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 39/2017/HSST ngày 27/6/2017 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Hưng Yên.

* Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn Nh, sinh năm 1976; sinh trú quán: Đội 15, thôn L, xã V, huyện V, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp; làm ruộng; trình độ văn hóa: lớp 02/12; con ông: Nguyễn Văn Ng và bà: Đào Thị T; có vợ: Trần Thị H và ba con; tiền án, tiền sự: chưa có; bị cáo tại ngoại; có mặt.

Trong vụ án còn có 02 bị cáo Lê Văn K, Vũ Văn Nh1 và người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bịkháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ sáng ngày 08/3/2017, Nguyễn Văn Nh đã điện thoại cho Lê Văn K và Vũ Văn Nh1 nói “trời tạnh mưa rồi đấy có đi được không?”, khi Nh nói như vậy thì K và Nh1 đều hiểu là đi trộm cắp chó về bán lại cho Nh nên đều đồng ý. K cùng Nh1 đến nhà Nh lấy dụng cụ để đi trộm chó, Nh đưa chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exiter biển số 89B-214.46 cùng các dụng cụ do Nh tự chế gồm: 01 bộ kích điện tự chế bằng kim loại kích thước (16x4,4)cm, một đầu gồm có 02 cực dây điện dài khoảng 70cm, một dây màu trắng, một dây màu đỏ nối với hai cực của ắc quy; 01 đoạn dây được quấn băng keo đen phía đầu dây có một công tắc được quấn băng keo đen cố định tại tay nắm phía sau xe bên trái, một đầu có 01 đoạn dây điện màu đen dài 60cm; 01 cần câu chó (thòng lọng) gồm có 01 đoạn tre dài 95cm, đường kính 02cm, tay cầm được quấn băng keo đen, phía đầu có thòng lọng được làm bằng dây phanh xe mô tô có gắn 02 cục kim loại dạng cánh sao; 01 đoạn dây điện màu đen dài khoảng 2,4m và 01 bao tải dứa màu trắng. Nh thỏa thuận với K và Nh1 nếu bắt trộm được chó mang về bán Nh sẽ mua với giá 50.000 đồng/kg còn sau đó Nh bán cho ai thì K và Nh1 không biết.

Khoảng 11 giờ cùng ngày K điều khiển xe mô tô chở Nh1 đi đến khu vực giáp ranh giữa xã L và xã T, huyện Y thì phát hiện bên đường có 01 con chó khoảng 15kg, Nh1 ngồi phía sau đã dùng thòng lọng ngoắc vào cổ con chó còn K tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Nh1 đi thêm khoảng 30m thì dừng lại để Nh1 cho con chó vào bao tải đã chuẩn bị từ trước. K tiếp tục điều khiển xe chở Nh1 đi đến khu vực thuộc thôn Ô, thị trấn Y thì phát hiện phía trước có con chó khoảng 30kg của gia đình ông Đỗ Xuân Tr. Nh1 tiếp tục dùng thòng lọng để bắt con chó thì bị nhân dân phát hiện truy đuổi, nên K và Nh1 đã bỏ chạy đến ngã ba Lò Rèn thuộc thôn L, xã Th, huyện Y thì gặp anh Trương Văn Đ đi xe đạp ngược chiều, anh Đ dùng xe đạp lao vào xe mô tô của K, Nh1 để ngăn cản làm cho cả hai phương tiện đổ ra đường. K bị truy đuổi bắt giữ và bị một số người dân dùng tay chân đánh phải đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện Y còn Nh1 bỏ chạy. Cùng ngày Công an xã Th đã quản lý 01 chiếc xe mô tô biển số 89B1-214.46, bên trong cốp xe có 01 bộ kích điện, 01 ví giả da, 01 cần câu chó; 01 bao tải dứa bên trong có 01 con chó lông màu đen nâu nặng 15kg và 01 con chó lông màu đen vàng nặng 30kg.Kết luận định giá tài sản số 10/KL-GĐ ngày 10/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y đã kết luận: 01 con chó màu lông đen nâu, nặng 15kg giá trị 1.050.000 đồng và con chó có màu lông đen vàng nặng 30kg giá trị 2.100.000 đồng; tổng giá trị của tài sản là 3.150.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 39/2017/HSST ngày 27/6/2017 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Hưng Yên đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn K, Nguyễn Văn Nh và Vũ Văn Nh1phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Nh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra bản án còn xử phạt Lê Văn K 02 năm 6 tháng tù, Vũ Văn Nh1 01 năm 9 tháng tù; quyết định về hình phạt bổ sung, vật chứng, án phí, quyền kháng cáo.

Ngày 04/7/2017 bị cáo Nguyễn Văn Nh kháng cáo xin hưởng án treo và miễn hình phạt bổ sung.

Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay:

Bị cáo Nguyễn Văn Nh bổ sung nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo, miễn hình phạt bổ sung; bị cáo nhận tội,khai báo thành khẩn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên tham gia phiên toà sau khi phân tích, đánh giá vị trí vai trò, hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Nh, sửa án sơ thẩm giảm cho bị cáo từ 02 đến 03 tháng tù và giảm hình phạt bổ sung cho bị cáo từ 9.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Nh thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của các bị cáo Lê Văn K, Vũ Văn Nh1 là những người trực tiếp đi bắt trộm chó, phù hợp với lời khai của người bị hại Đỗ Xuân Tr, người làm chứng Trương Văn Đ, Kết luận định giá tài sản cùng các công cụ, phương tiện phạm tội thu giữ được, đã có đủ cơ sở kết luận: khoảng 10 giờ ngày 08/3/2017, Nguyễn Văn Nh đã chủ động liên lạc với Lê Văn K, Vũ Văn Nh1 đồng thời chuẩn bị xe máy, bộ kích điện, dây thòng lọng, bao dứa để K, Nh1 đi trộm chó về bán cho Nguyễn Văn Nh, tổng  giá trị  tài  sản  trộm cắp được là 3.150.000 đồng. Bởi hành vi nêu trên, bị cáo bị Toà án nhân dân huyện Y M xét xử về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo: Hội đồng xét xử phúc thẩm, xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyềnsở hữu tài sản của người khác được pháp luật  bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Bị cáo là người khởi xướng và chuẩn bị phương tiện, công cụ để K, Nh1 thực hiện hành vi phạm tội, là người hứa hẹn tiêu thụ tài sản do K, Nh1 trộm cắp được; bị cáo biết các bị cáo K, Nh1 là những đối tượng nhiều lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác đã bị kết án nhưng vẫn rủ rê, lôi kéo K, Nh1 thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải giành cho bị cáo một mức hình phạt thoả đáng, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung; Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng vị trí vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, áp dụng chính xác tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù và 15.000.000 đồng hình phạt bổ sung là có căn cứ.Tại cấp phúc thẩm, bị cáo nộp đơn trình bày điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, vợ thường xuyên ốm đau, bị cáo là lao động chính trong gia đình xin được hưởng án treo và được miễn hình phạt bổ sung, đơn có xác nhận của chính quyền địa phương, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới bị cáo được hưởng theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; đồng thời bị cáo đã nộp Biên lai thu tiền với số tiền 200.000 đồng là khoản tiền để nộp án phí hình sự sơ thẩm. Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, do đó kháng cáo của bị cáo có căn cứ chấp nhận một phần, giảm cho bị cáo một phần hình phạt chính và hình phạt bổ sung, thể hiện sự khoan hồng, nhưng vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên tại phiên toà có căn cứ chấp nhận.

[3] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xét.

[4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Nh kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Nh. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 39/2017/HSST ngày 27/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Hưng Yên.

- Áp dụng: khoản 1, khoản 5 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; khoản 4 Điều 30; Điều 53 Bộ Luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Nh 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Văn Nh 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước. Tiền phạt được nộp một lần.

* Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Nguyễn Văn Nh đã nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) là tiền án phí hình sự sơ thẩm theo Biên lai thu tiền số 006972 ngày 04/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Hưng Yên, bị cáo đã thi hành xong khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Nh không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 77/2017/PTHS ngày 21/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:77/2017/PTHS
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về