Bản án 76/2021/HS-ST ngày 24/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 76/2021/HS-ST NGÀY 24/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2021/HSST-QĐ ngày 11 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T (tên gọi khác: V), sinh năm 1985 tại tỉnh Bình Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số 6/1, Khu phố B, phường G, thành phố A, tỉnh D; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hoài Q, sinh năm 1956 và bà Hồ Thị N, sinh năm 1959; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị K, sinh năm 1984, bị cáo có 02 con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không có;

Nhân thân:

Ngày 30/12/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 42 tháng tù về tội Cướp tài sản (bản án số 312/2005/HSST)

Ngày 17/5/2006 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thành phố) A, tỉnh Bình Dương xử phạt 15 tháng từ về tội Cưỡng đoạt tài sản (bản án số 58/2006/HSST). Tổng hợp hình phạt tại bản án số 312/2005/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 57 tháng tù. Chấp hành xong án phạt tù ngày 23/02/2009

Ngày 29/9/2009 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thành phố) A, tỉnh Bình Dương xử phạt 30 tháng tù về tội cố ý gây thương tích (bản án số 321/2009/HSST). Chấp hành xong án phạt tù ngày 25/9/2011.

Ngày 06/8/2015 bị Công an phường G, thành phố A, tỉnh Bình Dương xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (QD số 855/QĐ-XPHC).

Bị bắt, tạm giam ngày 18 tháng 10 năm 2020 đến nay. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

Dương Thị K. Vắng mặt.

Nguyễn Thị Tố N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 18 tháng 10 năm 2020 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố A phối hợp với Công an phường G tiến hành kiểm tra hành chính nhà nghỉ Thanh Tâm tại địa chỉ: A19/15 khu dân cư G, khu phố Bình Thuận 2, phường G, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Khi kiểm tra phòng số 13 phát hiện hai đối tượng tên Nguyễn Đức T và Dương Thị K, lúc này Nguyễn Đức T khai nhận bản thân có sử dụng ma túy đá, đồng thời T lấy giao nộp cho lực lượng Công an 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng cất giấu trong ví da nâu để bên trong túi quần phía sau bên phải T đang mặc, T khai nhận là ma túy đá của T mua của một người thanh niên tên B (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) tại khu vực chợ Đ, Thành phố H vào ngày 17/10/2020 với giá 1.000.000 đồng để sử dụng, đồng thời T giao nộp 01 bộ sử dụng ma túy cất giấu bên trong nhà vệ sinh cho lực lượng Công an.

Vật chứng thu giữ: 01 gói ni lon hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng, 01 bộ sử dụng ma túy và một cái ví da màu nâu.

Theo Bản kết luận giám định số 661/MT-PC09 ngày 22/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 1,9259 gam loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 58/CT-VKS - TA ngày 29/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố A đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 1,6512 gam ma túy, loại Methamphetamine - mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy và một ví da màu mâu.

Quá trình điều tra, truy tố người làm chứng Dương Thị K, Nguyễn Thị Tố N có lời khai phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An tham gia phiên tòa và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố A, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 18/10/2020 tại nhà nghỉ Thanh Tâm, địa chỉ A19/15 khu dân cư G, khu phố Bình Thuận 2, phường G, thành phố A, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Đức T có hành vi tàng trữ 1,9259 gam ma túy, loại Methamphetamine trong ví da nâu để bên trong túi quần phía sau bên phải T đang mặc và 01 bộ sử dụng ma túy cất giấu bên trong nhà vệ sinh.

Theo Bản kết luận giám định xác định 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng thu giữ trong vụ án là ma tuý có trọng lượng 1,9259 gam. Bị cáo khai nhận cất giấu số lượng ma túy nêu trên nhằm mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Đức T đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Đức T với tội danh, điều, khoản và điểm trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Ma túy là loại chất gây nghiện nguy hiểm, người sử dụng ma túy sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng đồng thời là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, về nhận thức, bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để có ma tuý cho bản thân sử dụng đã cố ý thực hiện tội phạm; bị cáo có nhân thân xấu, từng bị xử lý về các hành vi cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cố ý gây thương tích và sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo xem thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo suy nghĩ lại hành vi phạm tội của mình, nhằm giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

Đối chiếu với tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đứng pháp luật.

[5] Đối với Dương Thị K không biết việc bị cáo T có cất giấu ma túy nên không có cơ sở xem xét xử lý hình sự. Qua kiểm tra, Kiều có sử dụng ma túy nên Công an phường G, thành phố A, tỉnh Bình Dương đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền 750.000 đồng là đúng quy định pháp luật.

[6] Đối với đối tượng bán ma tuý cho bị cáo hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 bì thu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa chất ma tuý 1,6512 gam ma túy, loại Methamphetamine - mẫu vật hoàn lại sau giám định, 01 bộ sử dụng ma túy và một cái ví da màu nâu nên tịch thu tiêu huỷ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/10/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 bì thu niêm phong, ghi số vụ 661/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa chất ma tuý 1,6512 gam ma túy, loại Methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định);

- 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy;

- 01 ví da màu nâu.

(Vật chứng được chuyển đến Cục Thi hành án dân sự thành phố A, tỉnh Bình Dương theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/01/2021 giữa Công an thành phố A với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố A, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2021/HS-ST ngày 24/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về