Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 76/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:144/2021/HNGĐ-ST ngày 01/4/2021 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 62/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07/6/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 71/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22/6/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành N, sinh năm 1981. Địa chỉ: Số A, khu phố B, phường C, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Bà Trần Thị C, sinh năm 1992. Địa chỉ: Số A, khu phố B, phường C, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Địa chỉ liên hệ: số E, đường F, khu phố N, phường M, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28/01/2021, bản tự khai ngày 07/4/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Thành N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông N và bà Trần Thị C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2012, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố D tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 24/KH/2012, quyển số 01, ngày 28/02/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại nhà cha mẹ ông N địa chỉ số A, khu phố B, phường C, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 01 con chung, sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, đánh nhau, không có tiếng nói chung trong cuộc sống, mỗi lần vợ chồng cải nhau là bà C bỏ nhà đi, ông N đã nhiều lần tha thứ cho bà C nhưng bà C vẫn bỏ nhà đi thường xuyên. Hiện nay, ông N không còn sống chung với bà C. Nay, ông N xác định tình cảm giữa ông và bà C không còn nên khởi kiện ly hôn với bà C.

Về con chung: Ông N và bà C có 01 con chung tên Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 12/02/2012, hiện tại cháu T đang sống cùng với ông N tại địa chỉ A, khu phố B, phường C, thành phố D, tỉnh Bình Dương do ông N chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn ông N yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ông N không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt cùng ngày 25/6/2021, bà Trần Thị C trình bày: Thống nhất với ông N về quan hệ hôn nhân, con chung. Bà C và ông N tự nguyện kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân phường C, thị xã D, tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 24/KH/2012, quyển số 01, ngày 28/02/2012. Quá trình sống chung, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, gây gỗ. Nay, ông N có yêu cầu ly hôn thì bà C đồng ý ly hôn. Về con chung: Bà C và ông N có 01 con chung tên Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 12/02/2012, hiện cháu T đang sống với ông N, do ông N nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà C đồng ý giao cháu T cho ông N trực tiếp nuôi dưỡng. Bà C không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Bà C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông N và bà C có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Ông N và bà C đều thống nhất quan hệ hôn nhân và con chung. Quá trình giải quyết, ông N và bà C tự nguyện thỏa thuận với nhau về ly hôn và con chung. Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Thành N khởi kiện tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bà Trần Thị C. Bà C có địa chỉ thường trú tại số A, khu phố B, phường C, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Căn cứ các Điều:28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[1.2] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Tại phiên tòa ông N và bà C đều có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông N và bà C theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thành N và bà Trần Thị C tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, thị xã (nay là thành phố) D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 24/KH/2012, quyển số 01, ngày 28/02/2012 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 01 con chung, sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, đánh nhau, không có tiếng nói chung, mỗi lần vợ chồng cải nhau bà C thường xuyên bỏ nhà đi, ông N đã nhiều lần tha thứ cho bà C nhưng bà C vẫn bỏ nhà đi. Hiện nay, vợ chồng không còn sống chung với nhau, bà C đã bỏ nhà đi nơi khác sinh sống tại địa chỉ số E, đường F, khu phố N, phường M, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Nay ông N xác định không còn tình cảm với bà C nên có đơn khởi kiện ly hôn bà C. Về phía bị đơn bà Trần Thị C trình bày là thống nhất với lời trình bày của ông N về quan hệ hôn nhân và đồng ý ly hôn ông N. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận này, phù hợp Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Ông N và bà C có 01 con chung tên Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 12/02/2012, hiện tại cháu T đang sống cùng với ông N tại địa chỉ A, khu phố B, phường C, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương do ông N chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn ông N và bà C đều thống nhất giao cháu T cho ông N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Bà C không cấp dưỡng nuôi con. Tại bản tự khai ngày 21/5/2021, cháu Nguyễn Thị Thanh T có nguyện vọng được sống cùng ông N. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận này, phù hợp Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp pháp luật.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều: 28, 37, 39, 147, 227, 228, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều: 51, 55, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thành N đối với bà Trần Thị C về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thành N được ly hôn bà Trần Thị C.

- Về con chung: Ông Nguyễn Thành N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 12/02/2012. Bà Trần Thị C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp bà Trần Thị C lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông Nguyễn Thành N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bà Trần Thị C. Vì quyền lợi hợp pháp của con, việc cấp dưỡng nuôi con, thay đổi người nuôi con sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Thành N về việc không yêu cầu bà Trần Thị C cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Thành N không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Thành N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được trừ vào 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0049443, ngày 31/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Ông Nguyễn Thành N và bà Trần Thị C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:76/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về