Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 27/09/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 76/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án “Tranh chấp Hôn nhân & Gia đình” thụ lý số: 192/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2021/QĐST - HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lưu Thị L - sinh năm 1982. (có mặt)

Địa chỉ cư trú: Xóm T, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

- Bị đơn: Anh Tạ Quốc Q - sinh năm 1981.

Địa chỉ cư trú: Xóm T, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lưu Thị L trình bày: Chị và anh Tạ Quốc Q trước khi cưới có tìm hiểu nhau trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn ngày 03/3/2009 tại UBND xã Hồng Thành,huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc với nhau một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là 2 bên tính cách không phù hợp, bất đồng quan điểm với nhau về mọi vấn đề, kinh tế gia đình cũng gặp nhiều khó khăn nên thường xuyên xảy ra xích mích, chị đã nhiều lần bỏ qua vì con cái nhưng mâu thuẫn không thể hóa giải được. Sau khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã được gia đình khuyên nhủ nhiều lần nhưng không thành. Hai bên đã sống ly thân từ 5/2021 cho đến nay không còn quan tâm, trách nhiệm với nhau nữa. Chị xác định chị không còn tình cảm với anh Q nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn anh Tạ Quốc Q.

- Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Tạ Đức A, sinh ngày 10/10/2009 và cháu Tạ Diệu A, sinh ngày 28/10/2013. Hiện nay các con đang ở với chị bên ngoại, chị vẫn thường xuyên cho các con đi lại với anh Q. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi hai con không yêu cầu anh Q cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu tòa án giải quyết.

Quá trình giai quyết vụ án và tại phiên tòa anh Tạ Quốc Q trình bày như sau:

-Về hôn nhân: Anh nhất trí như lời trình bày của chị L về thời gian, điều kiện, địa điểm kết hôn của vợ chồng. Anh Q thừa nhận vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng chưa đến mức căng thẳng, anh xác định vẫn còn tình cảm với chị L, do đó chị L xin ly hôn anh Q không nhất trí.

- Về con chung: Anh thống nhất như lời trình bày của chị L về con chung.

Nếu tòa án giải quyết ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng một trong 2 con chung hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau.

- Về tài sản chung: Anh Q không yêu cầu tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân & Gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn anh Q có hộ khẩu thường trú tại xã Khánh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An được quy định tại điểm a khoản1 điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, Nghệ An.

2. Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị L, anh Q là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và đã thực sự căng thẳng, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm gì đến nhau nữa;

được thể hiện qua lời khai, ý kiến của các bên đương sự tại biên bản hòa giải, lời trình bày tại phiên tòa và qua biên bản xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân của chị L, anh Q thì thực trạng hôn nhân của hai vợ chồng đúng như chị L trình bày. Nay chị L xin ly hôn anh Q không nhất trí vì anh cho rằng anh vẫn còn tình cảm với chị L, tuy nhiên tại phiên tòa anh cũng thừa nhận vợ chồng có xảy ra xích mích, cải vã và hiện nay chị L đang ở bên ngoại cùng các con. Điều này cho thấy thực trạng hôn nhân giữa chị L, anh Q đã mâu thuẫn trầm trọng; mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy xét thấy nguyện vọng xin ly hôn của chị L là có căn cứ cần chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị L có nguyện vọng được nuôi 2 con và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng tiền nuôi con;

anh Q có nguyện vọng được nuôi dưỡng một trong hai con chung hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau. Hai con chung đều có đơn nguyện vọng được ở với mẹ.

Xét nguyện vọng nuôi con của các bên và nguyện vọng của các con chung là chính đáng thể hiện quyền và nghĩa vụ thì HĐXX thấy. Nếu giao 2 con chung cho chị L một mình nuôi dưỡng thì sẽ đảm bảo tốt về mọi mặt cho các con chung vì hiện tại các con chung do chị L nuôi dưỡng và đang có cuộc sống, học tập ổn định, bên cạnh đó ngoài việc làm ruộng chị L cũng có công việc và có thu nhập thu nhập bình quân hàng tháng 10.800.000 đồng (bảng xác nhận lưu tại hồ sơ); các con chung đều có đơn nguyện vọng xin được ở với mẹ và tại phiên tòa thì các con chung đều có nguyện vọng được ở với mẹ, ngoài ra việc chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung thì chị còn có sự hộ trợ từ bố mẹ, người thân bên ngoại. Đối với bị đơn anh Tạ Quốc Q thường xuyên phải đi làm xa, công việc không ổn định, do đó không đảm bảo được việc trông nom, chăm sóc con chung. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình cần giao hai con chung cho chị Lưu Thị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng: Đương sự chưa yêu cầu nên chưa xem xét.

[3] Về tài sản: Các bên không yêu cầu nên miễn xét.

[4] Về án phí: Chị Lưu Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 4 điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51, 56, 81, 82, 83 của luật Hôn Nhân và Gia đình;

Xử Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lưu Thị L.

- Về hôn nhân: Cho chị Lưu Thị L được ly hôn anh Tạ Quốc Q.

- Về con chung: Tiếp tục giao hai con chung là Tạ Đức A, sinh ngày 10/10/2009 và Tạ Diệu A, sinh ngày 28/10/2013 cho chị Lưu Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Đương sự chưa yêu cầu nên chưa xem xét. Anh Tạ Quốc Q không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Án phí: Căn cứ vào khoản 4, điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Buộc Chị Lưu Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị L được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003040 ngày 27/7/2021. Chị L đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm. Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại khoản điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 27/09/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:76/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về