Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 26/05/2021 về tranh chấp ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

 BẢN ÁN 76/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 76/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST–HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị D, sinh năm 1980; Địa chỉ: Ấp 3, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. (có mặt) - Bị đơn: Ông Bùi Văn C, sinh năm 1973;

Địa chỉ: Ấp 3, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 01/3/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Đỗ Thị D trình bày:

Về hôn nhân: Bà D và ông Bùi Văn C tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xuyên cải nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung và đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Bà D xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với ông C được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà D được ly hôn với ông C.

Về con chung: Bà D xác định vợ chồng có 02 người con tên Bùi Văn L sinh ngày 25/4/2000 và Bùi Nhật L sinh ngày 21/5/2011, hiện cháu L đã trưởng thành, cháu L do bà D đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn bà D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L, không yêu cầu ông C cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Bà D xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà D xác định trong thời gian chung sống vợ chồng không có nợ ai và cũng không ai nợ lại vợ chồng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án trực tiếp tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho ông Bùi Văn C, hai lần thông báo hòa giải và hai lần triệu tập xét xử nhưng ông C không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà D, không tham gia hòa giải và xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Ông Bùi Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông C.

[2] Về hôn nhân: Bà D với ông C tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn vào năm 2004. Tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thì mối quan hệ hôn nhân giữa bà Đỗ Thị D với ông Bùi Văn C được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo bà D xác định trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cải vã nhau nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2019 đến nay. Tại phiên tòa bà D xác định không còn tình cảm với ông C và cũng không thể tiếp tục chung sống với ông C được nữa nên vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với ông C; đối với ông C, mặc dù đã biết được nội dung khởi kiện xin ly hôn của bà D nhưng ông C không có ý kiến gì đối với yêu cầu của bà D, điều này cho thấy ông C đã không mong muốn hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này nữa. Từ đó cho thấy hôn nhân của bà D với ông C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của bà D, cho bà D được ly hôn với ông C là phù hợp.

[3] Về con chung: Bà D và ông C có 02 người con chung tên Bùi Văn L sinh ngày 25/4/2000 và Bùi Nhật L sinh ngày 21/5/2011. Đối với cháu L đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét; đối với cháu L do bà D đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn bà D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L, không yêu cầu ông C cấp dưỡng cho con; đối với ông C không có ý kiến gì về việc nuôi con và cấp dưỡng cho con. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giao cháu L cho bà D tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu L. Việc cấp dưỡng cho con bà D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: Bà D xác định vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với ông C không có ý kiến gì về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà D xác định không có nợ ai và không ai nợ lại vợ chồng, không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với ông C không có ý kiến gì về nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Bà Đỗ Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị D. Cho bà Đỗ Thị D được ly hôn với ông Bùi Văn C.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Nhật L sinh ngày 21/5/2011 cho bà D được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Đỗ Thị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0011518 ngày 01/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình; bà D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bà D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 76/2021/HNGĐ-ST ngày 26/05/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:76/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về