Bản án 76/2020/HSST ngày 28/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 76/2020/HSST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, số 34 Nguyễn Văn Trỗi, Phường 15, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 78/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu Tr, sinh năm 1972 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng kí hộ khẩu thường trú: Không có; chỗ ở: đường T, Phường C, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S (chết) và bà Nguyễn Thị L (chết); nhân thân: Ngày 01/11/1987, bị Công an quận Phú Nhuận bắt về hành vi trộm cắp tài sản, không xác định được hình thức xử lý; ngày 12/9/1990 bị Công an quận Phú Nhuận bắt về hành vi Trộm cắp tài sản. Ngày 18/9/1990, Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận ra Quyết định cưỡng bức lao động 24 tháng theo Quyết định số 176 ngày 18/9/1990; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 15/9/2020 đến ngày 24/9/2020, tạm giam từ ngày 24/9/2020 tại Nhà tạm giữ Công an quận Phú Nhuận. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Bùi Ngọc Vân A Địa chỉ: đường L, Phường M, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 14/9/2020, Nguyễn Thị Thu Tr đi bộ ngang qua nhà số đường L, Phường M, quận Phú Nhuận thì nhìn thấy cửa ngoài không khóa, lợi dụng lúc trong nhà không ai để ý nên Tr lén lút đi vào trong nhà lấy trộm chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 256GB, màu xanh của chị Bùi Ngọc Vân A để trên máy giặt, rồi bỏ vào trong túi quần bên phải mang về cất giấu tại nơi Tr ở, địa chỉ đường T, Phường C, Quận B.

Sau khi phát hiện bị mất trộm điện thoại, chị Vân A đến Công an Phường M, quận Phú Nhuận trình báo sự việc, đồng thời qua kiểm tra camera và định vị được vị trí Tr đang cất giấu chiếc điện thoại nên Công an Phường M, quận Phú Nhuận phối hợp Công an Phường C, Quận B truy tìm, bắt giữ được Tr tại trước nhà số đường T, Phường C, Quận B và tiến hành thu giữ vật chứng đưa về Công an Phường M, quận Phú Nhuận làm việc.

Ngày 15/9/2020, Cơ quan điều tra Công an quận Phú Nhuận tiến hành bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Thị Thu Tr về hành vi trộm cắp tài sản.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Thu Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra Công an quận Phú Nhuận thu thập được (các bút lục từ 149 đến 151; 161 đến 168).

Theo Kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 21/9/2020 kết luận: 01 điện thoại Iphone 11 Pro Max 256GB, màu xanh, giá trị 25.000.000 đồng (bút lục 64-65).

Theo bản cáo trạng số 75/CT-VKS.PN ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo và bị hại.

Sau khi phát biểu ý kiến kết luận về vụ án, phân tích đánh giá các chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 tuyên mức án đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr từ 09 tháng đến 12 tháng tù, trả lại điện thoại di động cho chị Vân A, miễn phạt tiền bị cáo, trả áo sơ mi tay dài cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr: bị cáo rất hối hận về hành vi của mình; kính mong Hội đồng xét xử xem xét, khoan hồng và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng truy tố và phù hợp với lời khai của bị hại. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt đồng điều tra như biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung, biên bản bắt người, thu giữ vật chứng, kết quả định giá … cùng các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

[2] Bị cáo khai nhận: Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 14/9/2020, bị cáo đi bộ ngang qua nhà số đường L, Phường M, quận Phú Nhuận thì nhìn thấy cửa ngoài không khóa, lợi dụng lúc trong nhà không ai để ý nên bị cáo lén lút đi vào trong nhà lấy trộm chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 256GB, màu xanh của chị Bùi Ngọc Vân A để trên máy giặt, rồi bỏ vào trong túi quần bên phải mang về cất giấu tại nơi bị cáo ở, địa chỉ đường T, Phường C, Quận B. Sau đó, qua hệ thống định vị của chiếc điện thoại nên Công an Phường M, quận Phú Nhuận phối hợp Công an Phường C, Quận B truy tìm và bắt giữ được bị cáo cùng tang vật tại trước nhà số đường T, Phường C, Quận B.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Với những tình tiết được chứng minh như trên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận đã truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr tính đến ngày phạm tội không có tiền án tiền sự và phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra tại phiên tòa hôm nay cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã tỏ thái độ thành khẩn khai báo, tài sản đã kịp thời thu hồi và giao trả cho bị hại, thiệt hại chưa xảy ra, bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Hội đồng xét xử nghĩ có chiếu cố giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt đối với bị cáo theo điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thỏa đáng.

[5] Tội phạm của bị cáo thực hiện là nguy hại cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng do tính tư lợi, tham lam, lười biếng lao động nên bị cáo đã phạm tội. Do đó, khi lượng hình cần có hình phạt nghiêm, buộc bị cáo tiếp tục chấp hành hình phạt tù có thời hạn mới đủ sức răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong tình hình phạm tội về cướp giật và trộm cắp tài sản ngày càng gia tăng.

[7] Về vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 256GB, màu xanh. Hiện Cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại chị Bùi Thị Vân Anh (bút lục 138).

- 01 USB DT101G2 4GB, hiệu Kingston màu xanh, ghi lại sự việc Tr lấy trộm điện thoại (kẹp lưu bìa hồ sơ).

- 01 áo sơ mi tay dài, màu trắng (bị cáo mặc khi trộm cắp tài sản).

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay, bị hại chị Bùi Ngọc Vân A vắng mặt, qua xem xét hồ sơ bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Ở dạng tội phạm này, ngoài hình phạt tù bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn không có khả năng nộp phạt nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào các Điều 455, Điều 456, Điều 463 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2020.

Miễn hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr.

Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

- Lưu hồ sơ 01 USB DT101G2 4GB, hiệu Kingston màu xanh, ghi lại sự việc Tr lấy trộm điện thoại.

- Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi tay dài màu trắng (bị cáo mặc khi trộm cắp tài sản).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/12/2020).

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận toàn sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2020/HSST ngày 28/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:76/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về