Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 76/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 101/2019/TLST-HNGĐ, ngày 21/3/2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 13/8/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Mỹ A, sinh năm 1990 (xin vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp T, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Bị đơn: Anh Huỳnh Dương C, sinh năm 1990 (vắng mặt không lý do).

Địa chỉ cư trú: ấp T, xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn xin ly hôn ngày 21/3/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ A trình bày: Chị và anh Huỳnh Dương C kết hôn do quen biết, tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre vào ngày 20/12/2012, sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường hay cự cãi nhau, anh C không quan tâm đến vợ con, vợ chồng đã ly thân cách nay khoảng 03 năm. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh C. Về con chung chị yêu cầu được nuôi cháu Huỳnh Trần Đại Q, sinh ngày 01/10/2014 hiện nay đang sống chung với chị, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có.

Bị đơn anh Huỳnh Dương C vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Ti phiên tòa bà Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Mỹ A; về con chung chị Trần Thị Mỹ A trực tiếp nuôi cháu Huỳnh Trần Đại Q, sinh ngày 01/10/2014 hiện nay đang sống chung với chị A, anh Huỳnh Dương C không phải cấp dưỡng nuôi con do chị A không có yêu cầu; về tài sản chung và nợ chung chị A trình bày không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Trần Thị Mỹ A có yêu cầu xin xét xử vắng mặt, anh Huỳnh Dương C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên căn cứ vào Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự trong vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Mỹ A và anh Huỳnh Dương C, Hội đồng xét xử thấy rằng anh chị kết hôn trên tinh thần quen biết, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện M, tỉnh Bến Tre vào ngày 20/12/2012. Do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn theo như chị A trình bày thì vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường hay cự cãi nhau, anh C không quan tâm đến vợ con và anh chị đã sống ly thân nhau. Hội đồng xét xử thấy rằng hôn nhân của chị A và anh C chỉ tồn tại trong thời gian ngắn đã phát sinh mâu thuẫn dẫn đến sống ly thân, thời gian sống ly thân anh chị không có giải pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo cho anh C đến Tòa án để tham gia hòa giải quan hệ hôn nhân với chị A, mục đích để anh chị hàn gắn nhưng anh C không đến Tòa án để tham gia hòa giải, điều đó chứng tỏ anh C có ý thức bỏ mặc, không muốn hàn gắn tình cảm với chị A. Do đó có căn cứ để xác định mâu thuẫn tình cảm vợ chồng chị A, anh C là đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị A là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Theo như chị A trình bày thì chị và anh C có một con chung tên Huỳnh Trần Đại Q, sinh ngày 01/10/2014 hiện nay đang sống chung với chị A, khi ly hôn chị A yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Đối với anh C không có ý kiến gì về con chung. Hội đồng xét xử thấy rằng từ khi chị A và anh C sống ly thân đến nay thì cháu Q sống chung với chị A nên tình cảm sẽ khăng khít với chị A nhiều hơn, đồng thời để bảo đảm sự ổn định cho cuộc sống của cháu Q nên cần thiết để cho chị A được tiếp tục nuôi con là phù hợp. Do chị A không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện của chị nên Hội đồng xét xử không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh C.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị A trình bày không có, đối với anh C trong suốt quá trình giải quyết vụ án không có ý kiến gì về các vấn đề nêu trên nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xác định anh chị có tài sản chung và nợ chung hay không nên không xem xét giải quyết. Nếu sau này có tranh chấp thì có quyền yêu cầu giải quyết ở vụ kiện khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về nghĩa vụ nộp án phí: Chị Trần Thị Mỹ A phải nộp án phí ly hôn theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của bà Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Mỹ A. Chị Trần Thị Mỹ A được ly hôn với anh Huỳnh Dương C.

[2] Về con chung: Chị Trần Thị Mỹ A trực tiếp nuôi cháu Huỳnh Trần Đại Q, sinh ngày 01/10/2014 hiện nay đang sống chung với chị Trần Thị Mỹ A, anh Huỳnh Dương C không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Trần Thị Mỹ A không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về chia tài sản khi ly hôn: Chị Trần Thị Mỹ A trình bày không có tài sản chung và nợ chung nên không xem xét giải quyết.

[4] Về nghĩa vụ nộp án phí: Án phí ly hôn chị Trần Thị Mỹ A phải nộp 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 000XXXX, ngày 21/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre nên không phải nộp thêm.

[5] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[6] Về việc thi hành bản án khi có hiệu lực pháp luật: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:76/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về