Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về ly hôn giữa anh D và chị N

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 76/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ LY HÔN GIỮA ANH D VÀ CHỊ N

Ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 449/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2019/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Quốc D - sinh năm 1985 Đăng ký HKTT: khối Xuân B, p. Hưng D, TP Vinh, Nghệ An (có mặt)

Bị đơn: Chị Vương Thùy N - sinh năm 1987 Đăng ký HKTT:khối Xuân B, p.Hưng D,TP Vinh, Nghệ An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 8 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn – Anh Nguyễn Quốc D trình bày: Anh kết hôn với chị Vương Thùy N trên cơ sở tự nguyên, đăng ký kết hôn tại UBND phường Hưng D, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An ngày 24/12/2010.Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc, thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân xẩy ra mâu thuẫn là do vợ chồng không phù hợp về quan điểm, tính tình và lối sống bên cạnh đó sau khi kết hôn anh D đi công tác lâu dài ở đất nước Pê Ru thình thoảng mới về nên dẫn đến tình cảm vợ chồng phai nhạt, không còn niềm tin và sự tôn trọng nhau, vợ chồng sống ly thân chính thức từ năm 2015 cho đến nay. Hiện tại anh D thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vợ chồng ly thân đã lâu không thể đoàn tụ nên yêu cầu tòa án giải quyết được ly hôn với chị N giải phóng cho nhau để sớm ổn định cuộc sống riêng của mỗi người. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Tường V, sinh ngày 20/5/2011, nay ly hôn anh D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung trưởng thành và không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ thì vợ chồng không có khoản nợ chung nào.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị N trình bày: Chị N thừa nhận về thời gian sống chung rồi kết hôn và điều kiện kết hôn,nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng như anh D đã trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không có hạnh phúc, sau khi sinh con gái được 01 tháng thì vợ chồng đã bắt đầu xẩy ra mâu thuẫn và chị N đưa con gái về nhà bố mẹ đẻ ở, Đến khi con gái được 08 tháng tuổi thì anh D đi công tác lâu dài tại đất nước Pê Ru (từ tháng 01/2012 đến tháng 6/2019) thình thoảng mới về Việt Nam nên vợ chồng càng không có sự gắn kết, cuộc sống ngày càng xa cách và không còn có tình cảm cũng như sự quan tâm lo lắng cho nhau, Vợ chồng cũng đã nhiều lần ngồi nói chuyện với nhau, xem xét lại tình cảm có thể vì con để tiếp tục tục mối quan hệ nhưng tình hình không cải thiện được. Hiện tại vợ chồng không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được và cũng không thể đoàn tụ được nên nay anh D làm đơn xin ly hôn chị N đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án chấp nhận cho vợ chồng thuận tình ly hôn. Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Tường V, sinh ngày 20/5/2011, Hiện tại con chung đang sống chùng với chị N nên ly hôn chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung trưởng thành và không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ thì vợ chồng không có khoản nợ chung nào.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Đề nghị áp dụng các điều 55, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 227, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Xử: Về Hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Quốc D và chị Vương Thùy N.Về nuôi con chung: Giao con chung là Nguyễn Ngọc Tường V, sinh ngày 20/5/2011 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D do chị N không yêu cầu. Về tài sản: Anh D và chị N đều không yêu cầu giải quyết. Về án phí: Anh Nguyễn Quốc D phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Quốc D khởi kiện xin ly hôn chị Vương Thùy N cư trú tại phường Hưng D, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Việc vắng mặt của bị đơn: Ngày 09/9/2019 Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thụ lý vụ án hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn Anh Nguyễn Quốc D và bị đơn chị Vương Thùy N. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các thông báo và triệu tập chị N đến làm việc thì chị N có lên Tòa hòa giải một lần vào ngày 20/9/2019, sau đó Tòa án tiếp tục tống đạt hợp lệ cho chị N yêu cầu lên Tòa để hòa giải nhưng những buồi hòa giải sau chị N đều vắng mặt không có lý do. Sau khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án cũng đã tống đạt cho chị N, tại phiên tòa được mở lần thứ nhất vào ngày 31/10/2018 chị N vắng mặt nên Tòa án đã hoãn phiên tòa. Vụ án được đưa ra xét xử lần thứ hai nhưng chị N vẫn không có mặt. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị N là phù hợp với quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Quốc D kết hôn với chị Vương Thùy N trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND phường Hưng D, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An ngày 24 tháng 12 năm 2010. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh D và chị N là hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét quá trình chung sống giữa anh D và chị N thấy rằng: Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng anh D và chị N không có hạnh phúc, sau khi sinh con vợ chồng đã bắt đầu xẩy ra mâu thuẫn dẫn đến việc chị N đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, đến khi con gái được 08 tháng tuổi anh D đi công tác lâu dài tại đất nước Pê Ru (từ tháng 01/2012 đến tháng 6/2019) thỉnh thoảng mới về Việt Nam nên vợ chồng càng không có sự gắn kết về mặt tình cảm, cuộc sống ngày càng xa cách và không còn quan tâm lo lắng cho nhau nữa, vợ chồng anh D và chị N cũng đã nhiều lần ngồi nói chuyện để xem xét lại tình cảm, vì con mà tiếp tục mối quan hệ nhưng không thành công, tình cảm vợ chồng không thể cải thiện, vợ chồng chính thức ly thân từ năm 2015 cho đến nay, Như vậy, có thể khẳng định cuộc hôn nhân giữa anh D và chị N trên thực tế không còn tồn tại một thời gian dài, chứng tỏ anh D và chị N không tìm thấy hạnh phúc trong việc sống chung, mục đích của hôn nhân không đạt được, cả anh D và chị N đều xét thấy không còn tình cảm với nhau và cùng thống nhất là thuận tình ly hôn nên cần căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình công nhận thuận tình ly hôn giữa anh D và chị N.

[2] Về nuôi con chung: Anh Nguyễn Quốc D và chị Vương Thùy N có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Tường V - sinh ngày 20/5/2011, cả Anh D và chị N đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án có yêu cầu anh D và chị N đưa con chung lên Tòa để lấy ý kiến của cháu về việc cháu có nguyện vọng ở với bố hay mẹ sau khi bố mẹ ly hôn nhưng chị N đã không đưa con lên Tòa để làm việc. Còn bản thân anh D cũng không đưa được con lên Tòa đế lấy ý kiến của con vì hiện cháu đang học tập và sinh sống cùng chị N tại TP Hồ Chí Minh, anh thường liên lạc với con qua điện thoại còn địa chỉ cụ thể thì anh không biết nên không thể đưa con lên Tòa để lấy ý kiến của con được. Vì vậy không có văn bản thể hiện ý kiến của cháu về việc cháu có nguyện vọng ở với ai sau khi bố mẹ ly hôn. Hội đồng xét xử nhận thấy trong quá trình chung sống anh D có quá trình công tác một thời gian dài tại đất nươc Pê Ru (từ tháng 01/2012 đến tháng 6/2019) nên con chung do chị N trực tiếp chăm sóc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ chăm sóc con chung của bố mẹ anh D, bản thân anh D công tác xa nhà nên không trực tiếp chăm sóc con. Bên cạnh đó chị N đã đưa con đi, làm thủ tục nhập học và sinh sống ổn định tại TP Hồ Chí Minh nên cần giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng để tránh xáo trộn cuộc sống hiện tại của cháu và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D vì chị N không yêu cầu.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay anh D cho rằng chị N không có đủ tư cách để nuôi con vì chị N có lối sống không lành mạnh, có hành vi vi phạm pháp luật, tuy rằng chị N đã chấp hành xong nhưng lối sống của chị N có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của con. Hội đồng xét xử thấy rằng nếu anh D có căn cứ về việc chị N có lối sống không lạnh mạnh, trực tiếp nuôi con làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ và sự phát triển của con, nguy hại đến con thì anh D có quyền làm đơn thay đổi người trực tiếp nuôi con bắng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[3] Về tài sản: Anh D và chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[4] Về án phí: Anh Nguyễn Quốc D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 55, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 227, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Quốc D và chị Vương Thùy N.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Tường V, sinh ngày 20/5/2011 cho chị Vương Thùy N trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh D do chị N không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản: Anh Nguyễn Quốc D và chị Vương Thùy N đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Quốc D phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000đ anh D đã nộp theo biên lai số 0000490 ngày 20 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi ành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

5. Án xử công khai, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về ly hôn giữa anh D và chị N

Số hiệu:76/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về